Phân họ Dinoderinae (mọt trưởng thành)
Đặc trưng hình thái
Mọt trưởng thành thân nhỏ, hình trụ, trên bề mặt lưng có những lông dựng đứng, dầy, ngắn, đầu thường ẩn dưới tấm lưng ngực trước, nhìn từ trên khó thấy, đỉnh đầu bóng, không có gờ. Chùy râu có 3 đốt và có lông ngắn. Hàm trên khỏe, nhọn ở đầu và thường có 2 răng ở phần đỉnh hàm.
Tấm lưng ngực trước hơi gồ cao, dốc nghiêng về phía trước và có những vẩy xù xì. Hai góc trước của tấm lưng ngực trước không có 2 gai dạng móc câu. Hốc háng trước nằm ngang, gần nhau không có vật lồi ở giữa. Vật lồi của đốt bụng thứ nhất (nhìn từ mặt dưới) ở giữa 2 đốt háng chân sau thẳng và hẹp.
Phân họ này có 6 giống, trong đó có 2 giống phân bố ở Việt Nam:
- Rhizopertha
- và Dinoderus.
Bảng khóa định loại các giống của phân họ Dinoderinae (mọt trưởng thành) 1(2) Trán phân biệt với chân môi, giới hạn bởi một đường nhỏ. Đốt thứ 2 của râu đầu dài bằng đốt thứ nhất. Đốt cuối cùng của bụng nguyên vẹn, tròn mép ở phía sau, phần sau của ngực trước có những hạt nhỏ trên bề mặt. Giống Rhizopertha Stephens 2(1) Trán không phân biệt với chân môi. Đốt thứ 2 của râu đầu thì ngắn hơn đốt thứ nhất (scapus). Đốt cuối cùng của bụng có dạng lõm hình cung ở mép sau. Phần sau của tấm lưng ngực trước có chấm. Giống Dinoderus Stephens |
- Stephens; III, Britt, Ent, Mandib, III 1830, p.354
- Lesne; Ann, Soc, Ent. Fr.66, 1897, P.319; Bostr. Afr. tr. fr, 1924, P.49; Coleopterorum Catalogus. Pars 161, Bostr, 1938, p.18.
Phân bố
Vùng nhiệt đới xích đạo.
Hình thái
Thân dài, rãnh trán chân môi rõ ràng, râu đầu có 10 đốt, các đốt chùy râu có hình dạng gần giống nhau. Mép trước của tấm lưng ngực trước tròn và có một hàm răng xếp liên tiếp nhau, phần trước tấm lưng ngực trước có những răng vẩy cá xếp đều đặn, phần sau có những hạt dẹt xù xì. Cuối cánh cứng hơi gồ lên và không có ú hoặc gai.
Giống này trên thế giới chỉ có một loài Rhizopertha dominica F . Ở Việt Nam tìm thấy rất nhiều ở kho lương thực , rất ít thấy loài này hại tre và gỗ .
(Mọt ngũ cốc hay mọt thóc )
Fabiricius ; Ent.Syst.I.1792,2.P.359
Lesne ; Ann. Soc. Ent. Fr. 1897 , 66 . P .332 , f.13, 21, 27b, Bostr . Afr. tr. fr,1924, p.50 f.30 ,31, Coleopterorum Catalogus. Pars 161 p18-19; Le Van Nong, Trav. Mus. Hits. Nat, 1973, vol XIII, P.157.
Phân bố địa lý
Loài mọt này phân bối rất rộng trong miền nhiệt đới và Á nhiệt đới bao gồm cả lục địa cũ và mới . Người ta cho rằng loài mọt này có nguồn gốc từ Ấn Độ hoặc vùng lân cận ( Đông Dương và Trung Quốc ). Do sự kiểm dịch không tốt nên đã lan tràn ra rất nhiều nước trên thế giới . Theo Potter thì loài này phân bố từ 40 vĩ độ Bắc đến 40 vĩ độ Nam. Ở nước ta loài này phân bố từ đồng bằng đến Trung du miền núi: Ninh thanh, Chí Linh, Kim Môn (Hải Dương), Đức Thọ (Hà Tĩnh), Quỳ Châu. Yên Thành, Diễn Châu (Nghệ An) , Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Hà Trung, Ngọc Lạc, Lang Chánh (Thanh Hóa), Kim Bôi (Hòa Bình), Lập Thạch (Vĩnh Phúc), loài này được phát hiện nhiều ở các kho thóc tập trung .
Ký chủ
Theo Froggatt, Barnes và Grovie cho rằng đối với ngũ cốc thì loài vòi voi hại thóc Sitopphilus oryzae L là nguy hiểm nhất và sau nó là loài mọt Rhizopertha dominnica F. Một tài liệu cũng đã phát hiện loài Rh.dominica phá hại gỗ nhưng hiếm thấy Lucas (1849) cũng đã phát hiện loài này sống trong vỏ cây Quercus suber Gardner (1933), Potter (1935) thu được chúng trong thân cây ngô và trong 1 loại tre; Billers lại tìm thấy Rh.dominica F trong gỗ ở miền Bắc Việt Nam (Tonkin).
Người ta nhận xét ràng loại mọt ngũ cốc này gây thiệt hại các loại hạt thuộc các cây thuộc họ hòa thảo: Graminae như lúa mạch , mì, ngô và sống chung với vòi voi hại thóc Sitophilus orizae L.
Ở miền Bắc Việt Nam , chúng tôi đã phát hiện Rh.dominica F phá hại gỗ trám trắng, và máu chó sau khi chặt hạ vào tháng 7 năm 1978 đặt tại Hà Nội.
Sinh học
Breese, Gray và Swan đã nghiên cứu về sinh học của loài này và nêu lên những nhận xét mà chũng ta cần quan tâm . Theo các tác giả thì mọt trưởng thành không thể ăn những hạt thóc mà không bị tổn thưởng , thậm chí nó không thể sinh sản trong những hạt thóc có hàm lượng nước cao. Mọt thóc có thể đục từ những vết thương của hạt thóc để chui vào mà phá hại bên trong hạt, cũng theo tài liệu này mọt thóc Rh.dominica F ở nhiệt độ 25°C con cái đẻ 52 - 561 trứng, bình quân 244 trứng, mỗi ngày để 4 - 13 trứng, bình quân 10,4 trứng/ ngày. Trong hoàn cảnh thích hợp 34°C, hàm lượng nước trong tiểu mạch 14%, ẩm độ tương đối 70% mỗi con cái đẻ 418 trứng (Triệu Dưỡng Xương 1966).
Ý nghĩa kinh tế
Rh.dominica F là loài cánh cứng hại ngũ cốc, mỗi con cái sẽ làm tổn hại một trọng lượng bằng 5 - 6 lần trọng lượng bản thân nó, sinh sản nhanh 40 - 50 ngày hoàn thành một thế hệ nên thiệt hại về ngũ cốc do mọt thóc Rh. dominica gây ra rất lớn.
Theo Lesne (1924) thì Rh. dominica F trước kia ăn gỗ, ngày nay nó chuyển hóa ăn ngũ cốc, nhưng sự chuyển hóa này cách đây không xa lắm, vì thế ngày nay người ta vẫn còn gặp rải rác nó ăn gỗ.
Hình thái
Mọt trưởng thành dài, nhỏ, có kích thước 2,5 đến 2,8mm, rộng 0,6 - 0,9mm có màu nâu sẫm hoặc nâu hồng, đôi khi có mầu nâu đen. Xúc biện hàm dưới, chân, râu đầu có màu nâu nhạt. Râu đầu được cấu tạo bởi 10 đốt. Đốt thứ nhất (scapus) và đốt thứ hai dài bằng nhau. Ba đốt cuối cùng (chùy râu) phình to và có kích thước gần bằng nhau, có dạng tam giác và bề mặt có lông ngắn. Tấm lưng ngực trước gồ lên, chiều rộng gần bằng chiều dài, hơi rộng về phía sau, góc trước và góc sau của ngực trước tròn. Mép trước của tấm lưng ngực trước tròn và có răng nối liền nhau, xếp thành hàng vòng cung, có 12 - 14 răng không nhọn lắm, đỉnh hơi tù. Phần sau tấm lưng ngực trước có những hạt xù xì, dẹt. Phiến thuỗn gần như vuông, hơi rộng về phía sau.
Phần gốc cánh cứng rộng bằng chỗ rộng nhất của ngực trước, hai bê cánh song song, cuối cánh cứng hình tròn không có gai. Bề mặt cánh cứng có những chấm lõm, hơi sâu, thô, dạng ôvan, xếp thành hàng đều đặn, chiều rộng của hàng chấm hơi nhỏ hơn khoảng cách giữa các hàng chấm. Bề mặt cánh cứng có lông trắng vàng, hơi ngả về phía sau. Bề mặt bụng có những lông ngắn, thưa màu vàng và có những chấm to, hơi thưa. Đốt cuối cùng của bụng nguyên vẹn. Chiều dài cánh cứng bằng 2,5 lần chiều dài của ngực trước. Con đực và con cái hình thái bên ngoài không phân biệt rõ ràng. Trứng dài hình quả lê màu trắng sữa.
Sâu non màu trắng dài 3mm thân cong hình chữ C. Ngực trước không thô lắm, đầu hơi dài so với rộng , râu đầu có 2 đốt. Môi trên lớn, nữa hình tròn. Hơi rộng so với dài, có lông cứng ở mép trước, không dài lắm. Hàm trên có 3 răng tương đối rõ ràng, xúc biện hàm dưới 2 đốt, xúc biện môi dưới có 1 đốt. Sâu non có 3 đôi chân ngực có hình dạng giống nhau, lỗ thở rất nhở, tròn. Lỗ thở ở ngực hơi to hơn lỗ thở ở bụng, sâu non thành thục dài 2,8mm. Nhộng trần màu trắng có lông trên bề mặt lưng.
Stephens III, Brit, Ent, Mandid. 1830. P352.
Lesne: Ann. Soc. Ent. Fr. LXVI 1897 P319; Bestr. Afr. tr. fr. 1924, p49, 59; Coleopterorum Catalogus Pars 161, P . 22- 23.
Phân bố
Ấn Độ, Malayxia, Châu Phi, ở Việt Nam có thể tìm thấy ở khắp các vùng trồng, sử dụng tre, nứa.
Trên thế giới có 40 loài, Việt Nam có 3 loài Dinoderus minutus; D. brevis và D .distinctus;
Ký chủ
Giống Dinoderus phá hoại các loại tren, nứa.
Sinh học
Mọt này tấn công vào tre, nứa sau khi chặt hạ, vòng đời của chúng ngắn tùy theo loài và từng địa phương khác nhau và vòng đời thay đổi.
Phòng trừ
Thiệt hại do mọt tre gây nên rất lớn, có lúc tưởng như không thể cứu chữa được. Để phòng trừ mọt tre nên dùng tre già 3 - 4 tuổi trở nên cũng hạn chế được mọt tre phá hại, nhưng trên thực tế tre cũng cung cấp không đủ cho tiêu dùng, nê điều này khó thực hiện. Tr, nứa ngâm xuống ao, hồ từ 6 tháng đến 1 năm cũng ngăn ngừa được mọt, nhưng ngâm như vậy thời hạn quá lâu, phương pháp này thường được áp dung ở vùng sâu, vùng xa, có thể dùng hóa chất bảo quản như LN-3 nồng độ 70% XM-5A; XM-5B với nồng độ 70% - 10% tẩm bằng phương pháp thay thế nhựa (Boucherie) cũng có thể ngăn ngừa được giống mọt tre này.
Hình thái
Mọt trưởng thành ngắn, tròn, dài, râu đầu từ 10 - 11 đốt, đốt thứ 2 của râu đầu ít nhiều ngắn hơn đốt thứ nhất, có 3 đốt chùy râu rõ ràng và có lông dàu trên bề mặt. Mép trước của ngực trước có một hàng răng xếp gần giống nhau hoặc đôi khi cách quãng. Phần trước tấm lưng ngực trước có dạng vảy xù xì dạng rũa cưa, phần sau có những chấm. Cánh cứng thường gồ lên, không có gờ mép bên, không tạo thành mặt nghiêng chính thức, cũng không có răng hoặc gai ở cuối mặt nghiêng cánh cứng. Mép sau đốt bụng cuối cùng của bụng không nguyên vẹn mà có dạng lõm vào trong hình tròn.
Bảng khóa định các loài trong giống Dinoderus 1(2) Gờ bên của ngực trước kéo dài và nối liền với hàm răng thứ nhất của tấm lưng ngực trước. Đốt thứ 2 có chùy râu (đốt thứ 9) có chiều rộng lớn hơn chiều dài không bằng 1,5 lần. Tấm lưng ngực trước không có hai vết lõm ở giữa. Râu đầu 10 đốt, thân dài 3 - 3,1mm. Dinoderus distinctus Lesne 2(1) Gờ bên của ngực trước không kéo dài và không nối liền với hàng rưng thứ nhát của mép trước tấm lưng ngực trước. 3(4) Râu đầu có 11 đốt, hai vết lõm từ giữa phần sau của tấm lưng ngực trước rõ ràng. Phiến thuỗn hình chữ nhật có chiều rộng bằng 2 lần chiều dài. Trên cánh cứng có những chấm xếp không thẳng hàng và những chấm này ở vùng lưng sâu hơn ở mặt nghiêng cánh cứng, thân dài 3,3mm. Dinoderus brevis Horn 4(3) Râu đầu có 10 đốt. Hai vết lõm từ giữa phần sau của tấm lưng ngực trước tương đối rõ ràng. Phiến thuỗn có chiều rộng không bằng hai lần chiều dài. Những chấm từ phần sau mặt nghiêng cánh cứng có dạng mắt, không nối liền nhau, thân dài 2,0 - 3,4mm. |
(mọt tre)
Fabricius, Syst, 1755, P54.
Lesne; Ann. Sôc. Ent. Fr. LXVI. 1897, P323, 329,f15; Bostr. Afr. tr. fr. 124,P. 61, 64,f7; Coleopterorum Catalogus Pars 161, 1938,P24.
Le Van Nong; Trav. Mus.Hist. Hat 1973. Vol XIII P.156,f.6,23
Phân bố
Ở vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới, nhất là vùng Ấn Độ-Mã Lai-Châu Phi. Do kiển dịch từ trước đến nay chưa tốt, nên người ta còn tìm thấy loài mọt tre này ở các nước Châu Âu.
Ở Việt Nam loài này phân bố rất rộng, ở những nới nào có trồng tre và sử dụng tre , nứa, luồng đều có vết tích chúng phá hại.
Gỗ ký chủ
Tre mai, luồng Thanh Hóa, diễn đá, diễn trướng, nứa ngộ, nứa tép, trúc Cao Bằng lùng,tre gai, tre ngà, mét (Nghệ An).
Sinh học
Theo tài liệu của Lesne 1924 và Lepesme 1944 thì mọt tre sống ở trong tre , nứa (Bambusaceae) nhất là trong hai chi: Dendrocalamus và Phyllostachys. Ở vùng Ấn Độ-Mã Lai thì mọt tre Dinoderus minutus là loài cánh cứng hại tre , nứa nguy hiểm nhất, và sau đó là loài xén tóc da hổ Chlorophorus annularis F . Thứ 3 là mọt dẹt Lyctoxylon convictor Lesne.
Cũng theo tài liệu của Lesne 1924 thì ngoài tre, nứa ra mọt tre còn tấn công một số cây gỗ như Sterculia fortida L có khi phát hiện nó sống trong hạt ngô nữa. Ở miền Bắc Việt Nam phát hiện thấy mọt tre sống trong gỗ trám trắng.
Căn cứ vào tài liệu của Triệu Dưỡng Xương 1966 thì trứng đẻ ra sau 3-7 ngày nở ra sâu non, thời kì sâu non 41 ngày, lột xác 4 lần, thời kỳ nhộng 4 ngày , mỗi vòng đời là 51 ngày. Căn cứ vào tài liệu của Stebbing 1914 thì ở Clucuta mỗi nam có đến 5-7 vòng đời.
Ở miền Bắc Việt Nam mỗi năm có 6 - 7 vòng đời (Le Van Nong 1973) , ở Bắc Việt Nam mọt tre hoạt động từ tháng 2 đến tháng 10.
Trong quá trình xâm nhập vào tre. nứa. mọt trưởng thành thoạt tiên xâm nhập vào tre từ mặt cắt ngang, cắt dọc chỗ mắt tre cật tre bị xây xát mất phần xilit cật tre. Chỗ có vết dao hoặc vắt cưa.
Ban ban đầu mọt mẹ đào một đường hang dài 3-5cm và luôn luôn vuông góc với thơ tre hoặc mẹ củ tre , nếu mọt tre xâm nhập từ mặt cắt ngang của những ống tre thì đường hang ban đầu dọc theo thớ tre từ 0.3-0,7cm sau đó đường hang mọt mẹ đổi hướng luôn luôn vuống góc với mạch tre . Đường hàng mọt tre xuyên đến đâu làm đứt mạch của tre và sau này mọt tre sẽ đặt trứng vào trong những mạch tre bị đứt ngang đó và sau đó dùng mùn gỗ tre bịt đầu mạch tre đã có trứng . Trong hang mọt mẹ luôn luôn rỗng , khống có mùn gỗ tre. Đường kính mạch tre để mọt mẹ có thể đặt trứng của chúng vào là lớn hơn 100-130µ. Mỗi con cái đẻ từ 50 - 90 trứng, tỷ lệ trứng nở 75 - 80%. Sâu non sau khi nở ra ăn các chất trong mạch tre và gậm thành mạch tre, đường hang sâu non ban đầu thẳng, sau khi lột xác lâng thứ nhất, sâu non lớn dần, đường hang sâu non cũng lớn theo, và hướng của hang sâu non là song song với thớ tre, cũng có khi đường hang này đan chéo nhau, ngoằn ngoèo, nhưng tỉ lệ chiếm ít hơn. Đường hang sâu non chứa đầy mùn tre, gỗ do sâu non bài tiết ra, và cuối đường hang sâu non là buồng nhộng, có hình ôvan dài và nằm song song với thớ tre, sâu non thành thục hóa nhộng ở đó. Sau khi vũ hóa thành mọt trưởng thành, chúng còn lưu lại trong buồng nhộng 2 -3 ngày rồi đục một lỗ mà bay ra ngoài, gọi là lỗ bay hay lỗ vũ hóa có đường kính 1,2 đến 1,3mm, lỗ vũ hóa có thể thấy cả ở phần cật và ít ở bụng tre, mép lỗ vũ hóa không trơn.
Hình thái
Mọt trưởng thành 2 - 3,4mm. Rộng 1 - 1,2mm thân có màu nâu hồng hoặc nâu đen. Vùng lưng cánh cứng có màu nâu hoặc phớt hồng, môi trên, xúc biện hàm dưới và môi dưới, đốt bàn chân có màu nâu vàng. râu đầu có 10 đốt, có lông thưa, 3 đốt chùy râu có lông màu vàng, ngắn, dầy.
Trán hơi gồ và có những chấm nhỏ xếp đều đặn, không liền nhau. Tấm lưng ngực trước hơi gồ cao, có chiều dài gần bằng chiều rộng, phần trước của tấm lưng ngực trước hơi hẹp lại và có những răng cưa xù xì, hàng răng thứ nhất có 8 răng, hai răng ở giữa cách xa nhau so với khoảng cách với các răng bên cạnh: Phần sau của tấm lưng ngực trước hơi rộng hơn, bề mặt có những chấm tròn xếp xít nhau. Hai góc sau của ngực trước tròn. Hai vết lõm ở giữa phần sau của tấm lưng ngực trước hình tròn ôvan tương đối rõ ràng.
Cánh cứng có các chấm xếp thành hàng ở gần đường phân cánh, càng xa đường phân cánh thì những chấm phân bố rải rác và gần như không xếp thành hàng, giữa các hàng chấm có những lông màu vàng và dựng đứng, ngọn của những lông này hơi xuôi về phía sau, cuối cánh cứng những lông này dày hơn và xếp thành hàng hoàn chỉnh.
Phiến thuỗn mờ, hình chữ nhật, có chiều rộng không bằng 2 lần chiều dài.
Trứng có hình quả bí đao ngắn màu trắng sữa.
Sâu non màu trắng sữa, ngực khỏe, 3 đôi chân ngực rất khỏe.
Ngộng trần màu trắng sữa.
Horn, G.H.,Proc. Ann. Phil. Soc. XVII. 1878. P.549.550.
Lesne. P., Bull. Soc. Ent. Fr, 1878. P.147; Ann. Soc. Ent. Fr, LXVI.1897.
P. 323,331,f11.19.
Stebbing: Ind, for. Ins, 1914. P.143.
Le Van Nong: Trav. Mus. Hist. Nat. 1973. XIII .P.156 - 157.
Phân bố
Vùng Ấn Độ, Malayxia.
Ở Việt Nam thì tìm thấy ở Đồng Hỷ (Thái Nguyên).
Gỗ ký chủ
Các loài tre nứa
Sinh học
Giống như loài Dinoderus minutus.
Hình thái
Dài 3,3mm, về hình thái bên ngoài rất giống loài D.minutus, chỉ khác các loài khác là D.brevis có 11 đốt râu đầu, hai răng giữa của hàng răng thứ nhất của tấm lưng ngực trước không to hơn và khoảng cách giữa 2 răng này không lớn hơn các răng kế tiếp. Phiến thuỗn có chiều rộng bằng 2 lần chiều dài.
4. Dinoderus distinctus Lesne 1897
Lesne. P., Ann. Soc. Ent. Fr LXVI, 1897, P.322, 325; Bull. Soc. Ent. Fr, 1921.
P.131, 132.
Le Van Nong; Trav. Mú. Hist. Nat, 1973, Vol XIII.P.157.
Phân bố
Phillipin. Ở Việt Nam mới tìm thấy ở Đồng Hỷ (Thái Nguyên) tháng 6 năm 1969.
Gỗ ký chủ
Gặp loài này hại các loài tre, nứa.
Hình thái
Mọt trưởng thành màu nâu, chiều dài 3-3,1mm, rộng 1mm, râu đầu có 10 đốt, đốt thứ 2 của chùy râu (đốt thứ 9) có chiều rộng bằng 1,5 lần chiều dài. Một đặc điểm để phân biệt với các loài khác trong giống là Dinoderus dictinctus có đường ngấn bên ở ngực trước nối liền với hàm răng thứ nhất của mép trước tấm lưng ngực trước . Hai vết lõm ở giữa phần sau của tấm lưng ngực trước không có hoặc rất mờ.
Giới thiệu tổng quan về họ mọt dài Bostrychidae
Bật mí cách diệt mối cho sàn gỗ công nghiệp hiệu quả
Tìm hiểu tổng quan về loài mối
Lịch sử nghiên cứu mối ở Việt Nam và một số nước lân cận
Sơ lược về đặc trưng hình thái bên ngoài của mối
Họ mối gỗ Kalotermitidae Enderlein
Mối gỗ ẩm Rhinotrmitidae Light
Mối nhà Xây-lan Coptotermes ceylonicus Holmgren
Dịch vụ diệt mối giá rẻ tại Quận Tây Hồ
==============================================================
Trung tâm diệt mối và côn trùng Anh Tuấn - Hà Nội
Địa chỉ :Số 9 ,ngõ 181 - Xuân Thủy - Cầu Giấy Hà Nội
Điện thoại :0979484855
Email : tranvankhang201981@gmail.com
Website : dietmoianhtuan.com