Giống Mọt Crossotarsus wallacei Thomson 1857 là một nhóm côn trùng cánh cứng hại gỗ. Mọt thích ăn các đồ vật có chứa chất xen-lu-lô nhất là gỗ, nếu gỗ trong quá trình chuẩn bị đưa vào sản xuất thành phẩm mà không được xử lý phòng mối, mọt thì rất dễ bị mọt trong quá trình sử dụng như: bàn, nghế, tủ quần áo, cửa, kệ ti vi, sập, án gian, trần nhà, sàn nhà, nhà nán, đồ mây tren đan, giường,...Mọt là một trong những thủ phạm gây mất trật tự vào ban đêm và đó là lúc mọt đang đục phá gỗ để lấy thức ăn. Công ty diệt mối và côn trùng Anh Tuấn chuyên cung cấp dịch vụ diệt mối, phòng chống mối, diệt mọt, diệt muỗi, diệt chuột, diệt gián, diệt kiến, phun khử trùng uy tín, chuyên nghiệp, giá cả cạnh tranh, bảo hành dài hạn. Liên hệ Hotline: 0979 48 48 55 để được tư vấ và xử lý kịp thời.
Thomson; 1857: Archiv. Entomolog. I. P. 343. (Platypus)
Chapuis; 1866. Monographie des Platypides. P. 53 fig: 1
- Con đực:
+ Chiều dài toàn thân: 9,00 ÷ 9,02mm.
+ Chiều dài toàn thân bằng 3 lần chiều rộng thân.
+ Chiều dài tấm lưng ngực trước: 2,50mm.
+ Chiều rộng tấm lựng ngực trước: 3,00mm.
+ Chiều dài cánh cứng so với chiều dài tấm lưng ngực trước 5,50 ÷ 2,50mm.
Con đực trưởng thành màu nâu, là loài có kích thước lớn nhất trong họ Platypodidae có ở Việt Nam. Thân có màu nâu hoặc nâu thẫm, giữa cánh cứng có màu nâu tươi hơn. Trán bằng, rãnh dọc trán rõ ràng và ở giữa hai hốc chân râu, bề mặt trán xù xì, gân mạng lưới và lông tơ ngắn, màu vàng, chân môi có một chùm lông vàng rất dày. Đường rãnh dọc đỉnh đầu rõ ràng, trên đỉnh đầu có bốn nhóm lông dài, vàng xếp theo hàng ngang gần như cách đều, hướng về phía sau, nhưng chính giữa đỉnh đầu thì không có lông màu vàng này.
Mắt kép có hình trứng tròn, có kích thước 16 ÷ 12. Chùy râu hình ôvan, có chiều dài so với chiều rộng 18 ÷ 10. Scapus có dạng hình bình hành, có chiều dài so với chiều rộng 18 ÷ 6,1.
Chùy râu có chiều dài lớn hơn chiều rộng mắt kép và hẹp ở gốc, phình ra ở đỉnh, cự ly giữa hai hốc râu hẹp hơn cự lý giữa hai mắt kép. Râu đầu đính ở giũa mắt kép và chân hàm trên.
Pronotum có chiều dài nhỏ hơn chiều rộng một cách rõ ràng, bề mặt có những chấm nhỏ, xếp xít nhau hơn so với can cái, mép trước gần như thẳng và có một hàng lông nhỏ, dày hướng về phía trước. Bề mặt Pronotum có những chấm tròn, nhỏ, xếp xa nhau và không theo quy luật nhất định. Phần trước của Pronotum, nhất là ở hai góc trước có lông vàng, dài hương về phía sau, càng vào giữa và phái sau thì thưa dần rồi mất hẳn, xung quanh pronotum có lông vàng, dài vừa phải. Đường rãnh dọc Pronotum rõ ràng và bằng 1/5 chiều dài của ngực trước.
Cánh cứng có những rãnh chấm rõ ràng, hai bên và cuối cánh cứng có màu nâu thẫm và có lông tơ vàng. Khoảng cách rãnh có những chấm rất nhỏ, thưa, và nông hơn những chấm ở rãnh. Góc ngoài cánh cứng kết thúc bằng một góc hơi nhọn và thô, hướng về phía sau. Khoảng cách rãnh ở cuối cánh cứng không kết thúc bằng một góc hơi nhọn và thô, hướng về phái sau. Khoảng cách rãnh ở cuối cánh cứng không kết thúc bằng gai mà bằng.
Bụng mang những lông màu vàng, thô hướng về phía sau, đốt bụng thứ 5 có một bướu nhỏ đỉnh chia làm hai thùy rõ ràng và hướng xuống phía dưới, nhưng chân bướu này vẫn chung, và đính ở giữ đốt này.
Mép trong đùi đốt chân sau có 3 - 5 răng không rõ ràng.
Tấm bên ngực sau có chiều dài so với chiều rộng 53 ÷ 20, bờ trên hơi lõm ở gần góc trước, bờ dưới hơi cong mũi thuyền.
Genitalia con đực có chiều dài so với chiều rộng 52 ÷ 9. Hai chân nhỏ hơn thắt ở gần gốc và xòe ra ở điểm mút.
Chuôi của vòng xuyến kéo dài ra vượt quá chân nhỏ, đoạn kéo dài này không vượt quá chỗ rộng nhất của thân. Con cái có chiều dài 9,80 ÷ 9,90mm. Chiều dài toàn thân bằng ba lần chiều rộng của thân. Chiều dài cánh cứng so với chiều dài tấm lưng ngực trước 5, 60 ÷ 2,50mm.
Con cái trưởng thành có kích thước lớn hơn con đực, thân có màu nâu hoặc nâu thẫm, giữa cánh cứng có màu nâu vàng, nhạt hơn phần xung quanh. Xúc biện hàm dưới, chùy râu, funicul, môi dưới, xúc biện môi dưới co màu vàng.
Trán lõm rất sâu, đường gờ trán từ chân môi trên kéo dài tới tận ngang bờ trên của mắt kép, nhìn từ trên, đầu bị khuyết lõm vào trong. Bề mặt trán bị lõm cùng với má tạo thành đường gờ mỏng sắc ráp xung quanh hốc chân râu có nhiều lông dài, dày vàng hướng tỏa ra xung quanh. Phía trước mắt kép, phần nhô ra của đường gờ có đính một chùm lông rất dày, rất dài từ 6 - 8 cái lông hướng vào phía trong. Bề lõm của trán hầu như không có lông.
Cự ly giữa hai hốc chân râu hẹp hơn cự ly giữa hai mắt kép. Khoảng cách giữa hai hốc chân râu và mắt kép xa hơn từ hốc chân râu đến chân hàm trên. Chùy râu hình trứng, hơi hẹp ở phần gốc có nhiều dài so với chiều rộng 19 ÷ 9. Scapus có dạng lưỡi búa, đốt cuống râu không đính ở đầu của scapus mà đính ở 1/3 chiều dài của nó.
Mắt kép nhỏ hơn chùy râu đầu và có hình ôvan tròn.
Pronotum có chiều dài nhỏ hơn chiều rộng, mắt kép gần như thẳng và có lông tơ dày vừa phải và hướng về phía trước. Hai góc trước có lông vàng, dài, và hướng về phía sau. Bề mặt pronotum có những chấm nhỏ, thưa, đường rãnh dọc pronotum ngắn chiếm 1/6 chiều dài ngực trước và ở gần mép sau của pronotum.
Cánh cứng, ở giữa có màu nhạt, xung quanh có màu thẫm, đường rãnh chấm trên cánh cứng rõ ràng, các đường rãnh thứ 1 và thứ 2; 3 và 4; 5 và 6 hợp nhau lại ở phần gốc, sâu hơn và rộng hơn, rãnh thứ 7 và thứ 8 thì không hợp nhau, ở phần gốc, càng về phía cuối cánh những rãnh chấm không rõ ràng. Khoảng cách rãnh chấm, ở trên bề mặt có những chấm nhỏ mịn, không xếp liền nhau. Bề mặt cánh cứng, ở phần gốc hầu như không có lông, chỉ ở khoảng 4/5 kể từ gốc mới có lông thưa hướng về phái sau. Cuối cánh cứng không kết thúc bằng gai mà tạo thành mặt nghiêng nhỏ và dốc.
Tấm bên ngực sau có dạng bình hành, có chiều dài so với chiều rộng 52 ÷ 20.
Mép trong của đốt đùi chân sau không có răng.
Các đốt bụng hơi gồ lên, bề mặt xù xì hình mạng lưới, có nhiều lông vàng hướng về phía sau. Đốt bụng thứ 5 không có bướu như con đực.
Đây là một trong những loài có thước lớn nhất trong họ mọt gỗ Platypodidae có ở Việt Nam. Mọt trưởng thành tấn công vào những cây gỗ sau khi chặt hạ được 3 - 4 ngày còn để ở rừng, chúng hoạt động ở những nơi có ánh sáng tán xạ, không gặp chúng ở ngoài trời có ánh sáng trực xạ.
Hướng đường hang chính của loài mọt này là xuyên tâm và vuông góc với trục thân cây, còn đường hang nhánh thường tách hang chính một đoạn ngắn rồi lại song song với đường hang chính. Cuối đường hanh nhánh là 3 - 4 buồng nhộng, buồng nhộng hướng lên phía trên hoặc hướng xuống phía dưới thân cây, và đối xứng so le với nhau, hầu như buồng nhộng rất ít khi vuông góc với thân cây.
Mọt trưởng thành mới vũ hóa theo đường hang mẹ đã đục cũ mà bay ra ngoài. Chúng không tự đục một đường độc lập để chui ra ngoài. Cũng như những con mọt dực khác trong họ Platypodidae. Con đực đến đào hang trước, khi hang mọt đạt đến chiều sâu 3 - 4cm đủ để che kín cho cả con đực và con cái thì mới thấy con cái đều nghép đôi và giao phối và, sau khi nghép đôi con cái vào bên trong để đào hang đẻ trứng, con đực ở bên ngoài tải mùn gỗ ra ngoài và không cho những sinh vật khác xâm nhập vào cửa hang. Xung quanh đường hang mọt này thường có màu đen do mọt mẹ mang bào tử nấm vào cấy trong vách hang để làm thức ăn cho sâu non, và chính nấm này làm biến màu gỗ.
Vùng Đông phương: Malayxia, Borneo, Sumatra, Đài Loan, Sự phát hiện loài này có ở Việt Nam sẽ mở rộng vùng phân bố của chúng ở Đông phương; ở Việt Nam tìm thấy ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Hà Nội, Cúc Phương (Ninh Bình).
Hong, phơi làm cho gỗ xẻ nhanh khô là một trong những biện pháp xử lý kỹ thuật để phòng trừ mọt gỗ. Ván gỗ trám trắng có độ ẩm khi mới xẻ là 85,4%. vạng trứng 92,4% và sau sau là 89,3% thì mọt gỗ chân dài đến xâm nhập, sau 20 - 24 ngày ẩm độ giảm xuống: trám trắng 34,8%, vạng trứng 35,1%, và sau sau là 31,1% bình quân là 33,6% (34%) ở ẩm độ này mọt gỗ không xâm nhập vào gỗ.
Tẩm cây đứng:
Tẩm cây đứng là đưa hóa chất bảo quản gỗ vào cây đang còn sống bằng biện pháp này: dùng LN-1:4% với lượng thuốc bột: 5 - 7kg/m³ có số lượng lỗ mọt xâm nhập: 40 - 30,1 lỗ/1000cm², độ sâu đường hang mọt giới hạn từ 4,08 - 2,66cm cũng như vậy đối với CuSO4: 40% với lượng thuốc bột: 5 - 7kh/m³, số lỗ mọt nhập: 34,1 - 13,5 lỗ/1000cm² và đường hang của mọt giới hạn ở độ sâu 3,85 - 1,56cm.
Tham khảo một số bài viết các giống mọt hại gỗ khác:
Mọt Crossotarsus Vietnamensis Le 1994
Mọt Crossotarsus Squamulatus Chapuis 1866
Giới thiệu giống mọt Cryphalus Erichson 1836
Hylesinus Despectus Walker 1859
Giống mọt Scolytoplatypus Schaufuss 1891
Giống Mọt Xyleborus Eichhoff 1864
Giống Mọt Crossotarsus Chapuis 1866
Mọt Crossotarsus externedentatus Fairmaire 1850
Mọt Crossotarsus Lecontei Chapuis 1866
========================================
Mọi thông tin về dịch vụ diệt mối, mọt Crossotarsus wallacei Thomson 1857 xin liên hệ:
Công Ty TNHH Kinh Doanh Dịch Vụ Diệt Mối Anh Tuấn
Địa chỉ: Số 9 ngõ 181 Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà Nội
Điện thoại (Zalo): 0979 48 48 55
Email: tranvankhang201981@gmail.com
Website: www.dietmoianhtuan.com