Giới thiệu tổng quan về họ mọt dài Bostrychidae
Họ mọt dài Bostrychidae cùng với Anobiidae, Ptinidae, và Lyctidae hợp thành liên họ Bostrychoidae, (Coleoptera). Đối với họ Ptinidae ít hại gỗ, còn Bostrychidae, Lyctidae và Anobiidae thì hại gỗ nghiêm trọng ở mức độ khác nhau, nhất là ở các nước nhiệt đới và Á nhiệt đới như ở nước ta, thì tác hại của chúng gây ra rất lớn. Họ mọt dài Bostrychidae gây hại đối với các loại gỗ khúc ở rừng, gỗ dùng trong xây dựng, tre, gỗ dùng cả để trang trí nội thất, cũng có khi tấn công vào những cây gỗ sinh trưởng yếu, cây bị bão làm đổ, cây bị tổn thương về cơ giới. Nhưng mọt dài tấn công mạnh nhất vào những cây gỗ sau khi khai thác còn để ở các bãi gỗ trong rừng hoặc gần rừng.
Về hệ thống phân loại giữa Bostrychidae và Lyctidae rất gần gũi với nhau nên Lesne đã xếp Lyctidae là một phân họ trong họ Bostrychidae (Coleopterorum Catalogus 1938, Pars 161: 1 - 84), nhưng sau đó Lepesme lại tách Lyctidae thành một họ độc lập (Les Coléoptères 1944: 1 - 241), cho đến ngày nay nhiều nhà côn trùng học cho là hợp lý vì những đặc điểm hình thái bên ngoài khác nhau như sau (đối với mọt trưởng thành).
1(2) Đầu nhỏ ẩn dưới tấm lưng ngực trước, và thường ít khi nhìn thấy đầu từ trên xuống. Mọt trưởng thành có hình trụ tròn, mép ngoài đốt chầy có gai mịn. Râu đầu hình chùy có 10 - 11 đốt, 3 đốt cuối cùng phình to ra một cách rõ ràng. Đốt thứ nhất của bụng nhìn từ mặt dưới có chiều dài bằng đốt thứ 2.
Bostrychidae (họ mọt dài)
2(1) Đầu to không ẩn dưới tấm lưng ngực trước, từ phía trên nhìn thấy đầu một cách rõ ràng. Mọt trưởng thành có thân gần như dẹt, mép ngoài đốt chầy không có gai. Râu đầu (Antennae) hình chùy, có 11 đốt , 2 đốt cuối cùng pjinhf to ra. Đốt thứ nhất của bụng nhìn từ dưới có chiều dài bằng 2 lần đốt thứ 2 kế tiếp.
Lyctidae (họ mọt cám)
Họ mọt dài Bostrychidae người Trung Quốc gọi là"Trường đố khoa" đã được nghiên cứu từ thế kỷ 18. Linné là người đầu tiên nghiên cứu về họ mọt này, hai loài đã được mô tả là Bostrychus capucinus L và Sinoxylon ceratoniae L (Syst, Naied: 10. 1758) tiếp đó Fabricius (Syst, Ent, 1758 - 1792) và những năm sau đó đã mô tả 2 giống gồm 9 loài. Stephens, III, Brit, Ent, Mandib. 1830) mô tả thêm 3 giống gồm 5 loài, sau đó được các tác giả nghiên cứu bổ sung : Lacordaire 1857, Leconte 1861, Thomson 1863, Horn 1878, Walker 1858, 1860, 1867. Reitter 1911. Nhũng tài liệu này chủ yếu là phát hiện và mô tả những loài mới, còn tản mạn chưa hệ thống. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 những tài liệu nghiên cứu về họ mọt dài đầy đủ hơn, đáng chú ý là tài liệu của Lesne đã được công bố trong những năm 1896, 1897, 1898, 1900, 1906, 1911, 1919, 1924 và 1938,...Tác giả đã dựa vào những tư liệu và mẫu vật của đoàn điều tra khảo sát động vật ở Đông Dương và Châu Phi để nghiên cứu định loại và vùng phân bố. Trong thời gian 1896 đến 1938 tác giả đã mô tả 53 giống mới gồm hơn 300 loài mới, chiếm gần 3/5 số giống và loài đã được phát hiện trên toàn thế giới tính đến năm 1938. Cũng theo tài liệu của Lesne (Coleopterorum Catalogus 1938).
Trên toàn thế giới đã phát hiện được 518 loài (Bostrychidae + Lyctidae) phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và Â nhiệt đới. Còn đối với vùng ôn đới chỉ phổ biến có 2 loài. Bostrychus capucinus L và Sinoxylon perforans Schrank. Theo thống kê chưa đầy đủ thì cho đến nay trên toàn thế giói đã phát hiện được trên 600 loài thuộc họ mọt dài.
Những nghiên cứu về họ mọt dài Bostrychidae ở Việt Nam đã có từ cuối thế kỷ 19 cho đến trước năm 1945. Lesne phát hiện nhiều loài trong họ mọt dài có ở Việt Nam. Trong thời gian từ 1895 - 1938 tác giả đã nghi nhận ở Việt Nam có 15 giống gồm 34 loài, chiếm hơn 28,3% số giống và 5,8% số loài có trên thế giới đến năm 1938. Sau đó cho đến năm 1945 họ mọt dài ít được nghiên cứu ở nước ta.
Sau hòa bình lập lại năm 1954 có một số kết quả điều tra đã được công bố. Theo tài liệu về kết quả điều tra côn trùng năm 1967 - 1968 của Viện Bảo vệ thực vật do Nhà xuất bản Nông thôn ấn hành năm 1976 chỉ nghi nhận có 4 loài: Dinoderus minutus, Heterobostrychus sp, Rhizopertha dominica F và Xylion sp, nhưng 4 loài này được thu thập trên cây dại và cây tròng nông nghiệp như lúa.
Khi nghiên cứu về côn trùng cánh cứng ở Đông Dương, Schell năm 1962 đã nghi nhận có 11 loài thuộc họ Bostrychidae: Dinoderus minutus F , Heterobostrychus hamatipennis Lesne, Heterrobostrychus pileatus Lesne, Schistoceros caenophradoides Lesne, Sinoxylon anale Lesne, Sinoxylon crassum Lesne, Xylodectes venustus Lesne, Xylopsocus radula Lesne, Xylopsocus capucinus F, Xylothrips flavipes III và Rhizopertha dominica F (Verhaudl. Naturf. Ges Basel, Band 73, Nr 1: 184 - 193, 1962). Những năm sau đó khi nghiên cứu về côn trùng hại gỗ, Le Van Nong đã nghi nhận ở Bắc Việt Nam có 9 giống gồm 21 loài thuộc họ mọt dài Bostrychidae (Trav. Mus. Hist, Nat, "Grigore Antipa", 1973, vol XIII, 155-172 Bucuresti, Tập san Lâm nghiệp số 3: 22- 24. 1963; số 11:20-23.1974; số 12: 23-27.1977...).
Mọt dài trưởng thành có hình trụ, thân dài từ 2 - 32mm có màu đen, nâu cà phê, màu nâu hoặc nâu hồng, rất hiếm có màu kim loại, mắt kép ở vị trí xa nhau và đính ở hai bên đầu, có hình tròn hoặc hình ô van. Râu đầu có dạng hình chùy gồn 10 - 11 đốt được đính ở giữa mắt kép và chân hàm trên, chùy râu có 3 đốt. Miệng phát triển, môi nhìn thấy rõ ràng, hàm trên to khỏe, hàm dưới cũng phát triển, đốt gốc ngắn, đốt cuối cùng dài và có lông, xúc biện hàm dưới có 4 đốt, môi dưới phát triển, xúc biện môi dưới có 3 đốt.
Ngực trước phát triển và gồ cao về phần trước và thường che lấp đầu, nhìn từ trên xuống không thấy đầu. Bề mặt tấm lưng ngực trước có những răng dạng vảy cá, ở phần trước những răng này khỏe, càng về sau những răng này nhỏ dần. Phiến thuỗn (scutellum) thường có hình tam giác, các góc tù, không nhọn. Ngực sau dài hơn ngực trước và ngực giữa.
Cánh cứng có những hàng chấm rõ ràng, cuối cánh cứng tạo thành mặt nghiêng cánh cứng. Đối với phân họ Bostrychinae thì trên bề mặt nghiêng cánh cứng còn có những răng hoặc gai đặc trưng cho loài, và thấy rõ ràng nhất ở con đực, còn con cái thì thường không có răng hoặc răng không rõ ràng trên mặt nghiêng cánh cứng.
Bụng gồm có 5 đốt nhìn từ phía dưới, những đốt này được kytin hóa, bề mặt thường có lông thưa hay dày là tùy theo từng loài, đối với các đốt bụng khin nhìn từ phía trên có 8 đốt.
Bàn chân có 5 đốt, đốt thứ nhất thường nhỏ, ngắn, nhìn từ phía dưới thấy rất rõ ràng. Đối với phân họ Dinoderinae thì đốt thứ nhất bàn chân không khác biệt nhiều với các đốt thừ 2, 3 và 4. Một đặc điể đáng chú ý là đốt thứ 4 không bao giờ phân chùy.
Trứng có hình quả bí ngắn và có màu trắng sữa.
Sâu non trưởng thành có dạng cong hình chữ "C", ngực khỏe và có 3 đôi chân ngực tương đối phát triển, thân có màu trắng ngà. Đầu sau non thường ẩn dưới tấm lưng ngực trước, chân môi ngắn, rộng về chiều ngang, mắt đơn thường giảm. Hàm trên ngắn, rất khỏe và được kytin hóa cao, hàm dưới và môi dưới nhỏ, thường ẩn dưới hàm trên, đốt thứ nhất của hàm dưới có hình trụ, hơi dài, xúc biện hàm dưới kém phát triển, râu đầu của sâu non ở bên cạnh chân hàm trên, thường ngắn, có khi thoái hóa, râu gồm 2 - 3 đốt. Đốt thứ nhất ngắn, đốt thứ 2 phát triển hơn, đốt thứ 3 thường nhỏ và ngắn hơn các đôt trước nó. Ngực trước rộng hơn so với đầu và dài hơn so với các đốt ngực khác, nhìn từ phía lưng ngực giữa và ngực sau gần bằng nhau.
Bụng có 9 - 10 đốt, từ đốt thứ 1 đến đốt thứ 8 mỗi đốt có ột đôi lỗ thở ở 2 bên. Không có chân bụng. Nhộng màu trắng sữa, nhìn từ phía lưng có thể thấy các đốt rõ ràng.
Theo Lesne (1938) và Lepesme (1944) thì riêng họ mọt dài Bostrychidae đã được phát hiện 79 giống gồm 455 loài có trên toàn thế giới, trong đó Việt Nam đã được phát hiện 15 giống gồm 34 loài, nếu lấy trên toàn lãnh thổ Đông Dương thì có 16 giống, 35 loài chiếm 20% giống, 7,7% số loài trên thế giới.
Họ mọt dài Bostrychidae sống phổ biến ở vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới, như loài mọt tre Dinoderus minutus F hại tre rất nghiêm trọng và phân bố phổ biến ở vùng Đông Dương, và có thể nói hàu như nơi nào có trô gf tre và sử dụng tre là nơi đó có mọt tre này phá hại.
Cho đến nay con người cũng đã biết tuwong đối đầy đủ về họ mọt dài, đây là những con mọt ăn gỗ thực sự, nó khác với mọt gỗ chân dài Platypodidae và tộc Xyleborini (Scolytidae) sống bằng những sợi nấm mà mọt mẹ trong quá trình đào hang để đẻ trứng đã đen bào tủ vào cấy ở vách hang. Họ mọt dài có ảnh huwongr lớn đến kinh tế rừng. Vì rằng nó trực tiếp làm hư hỏng đối với những cây gỗ mềm và phần gỗ giác đối với gỗ có giác lõi phân biệt, gỗ dùng để trang trí nội thất trong gia đình như bàn, nghế, giường tủ, ván ốp tường và đồ dùng bằng tre, nứa...Họ mọt dài thường xâm nhập vào những cây gỗ có chất lượng tốt, chưa bị nấm, mục phá hoại.
Không phải tất cả các loại gỗ sau khi chặt hạ đều bị mọt dài tấn công, mà nó phụ thuộc vào đường kính mạch gỗ của loại gỗ đó to hay nhỏ. Mọt dài Bostrychidae không đẻ trứng trên vách hang, mà con cái đẻ trứng vào những mạch gỗ thích hợp, vậy đường kính mạch gỗ phải lớn hơn máng đẻ trứng của mọt dài. Đối với những loại gỗ có đường kính 100 - 150µ trở lên thì thường bị họ mọt dài phá hại, vì mạch gỗ có độ lớn như vậy mọt cái mới luồn máng đẻ trứng và đặt trứng được vào trong mạch gỗ.
Điều kiện thứ nhất để mọt dài xâm nhập vào gỗ là đường kính mạch gỗ phải lớn hơn máng đẻ trứng của mọt cái. điều kiện thứ 2 không kém phần quan trọng đó là trong gỗ có đủ chất đường và bột để nuôi sâu non sau này hay không? Những thí nghiệm sau đây làm sáng tỏ vấn đề này? Gỗ trám trắng Canarium album có trong đường kính trung bình của mạch gỗ là 210µ (Harzman 1962). Với độ lớn của mạch gỗ như đã kể trên, mọt gỗ Xylothrips flavipes sẽ đẻ trứng được vào trog mạch gỗ, trong gỗ có đủ đường và bột để nuôi sâu non, qua giai đoạn nhộng, mọt trưởng thành và hoàn thành vòng đời của chúng. Nhưng cũng chính loại gỗ trám trắng này sau khi khai thác đem ngâm xuống ao, hồ, thời gian từ 6 tháng trở lên làm cho các chất đường và bột có trong gỗ trám trắng bị phân giải. Do vậy đối với gỗ trám trắng và các loại có cấu tượng gỗ tương tự, sau khi đã ngâm trên 6 tháng trở lên thuwongf không bị mọt đai tấn công.
Trong họ mọt dài Bostrychidae xâm nhập và phá hoại các loại gỗ, nhưng riêng loài Rhizopertha dominica thì lại xâm nhập và phá hại các loại hạt ngũ cốc, gây thiệt hại rất lớn.
Tất cả mọt dài khi đục vào gỗ tạo thành hê thống đường hang có đặc điểm chung gồm có:
- Đường hang mọt mẹ.
- Đường hang sâu non.
Đường hang mọt mẹ xuất phát đầu tiên từ ngoài vỏ (đối với cây có vỏ) hoặc gỗ xuyên qua lớp gỗ giác hoặc lớp vỏ cây đi vào bên trong gỗ một đoạn ngắn tùy theo loài từ 1 - 4cm, sau đó chuyển hướng, song song theo vòng năm của gỗ ở phần gỗ giác chiều dài từ 4 - 5cm, chiều dài của đường hang mọt mẹ biến đổi từ 5 - 8cm có khi dài hơn nữa tùy theo loài.
Đường hang mọt mẹ khác với đường hang sâu non ở chỗ là đường hang mọt mẹ thường được làm sạch mùn gỗ nên bao giờ cũng rỗng.
Đường hang saau non chứa đầy mùn gỗ mịn do sâu non bài tiết ra được nén lại, đường hang sâu non thoạt nhiên nằm bên trong mạch gỗ, gần vách đường hang mọt mẹ, mà trứng của mọt mẹ đã được nằm trong mạch gỗ đó thông qua những mặt cắt của mạch gỗ lộ ra trong quá trình tạo hang để đẻ trứng của mọt mẹ. Khi sâu non còn nhỏ thì hướng của đường hang sâu non không theo một quy luật nhất định.
Cuối đường hang sâu non là đường nhộng, sau khi vũ hóa, mọt trưởng thành đục một lỗ vũ hóa độc lập mà bay ran ngoài. Đặc điểm của đường hang sâu non của họ mọt dài Bostrychidae là khi cắt ngang thì hình tròn, còn các họ khác như Buprestidae, Cerambicidae, thì đường hang sâu non khi cắt ngang lại có hình elip.
Mọt dài xâm nhập vào gỗ chúng phải đào một đường hang mọt mẹ, nhưng hang mọt mẹ luôn luôn rỗng, mọt mẹ không đẻ trứng trên vách hang mọt mẹ, mà chúng luôn máng đẻ trứng vào những mạch gỗ có kích thước thích hợp mà đặt trứng vào trong đó rồi lấy mùn gỗ nút lại, sau khi sâu non nở ra chúng ăn gỗ trưc tiếp. Trừ loài Rhizopertha dominica F đẻ trứng trong hạt thóc).
Vòng đời của họ mọt dài có sự khác nhau tùy theo loài, thời gian để hoàn thành một vòng đời ngắn nhất trong vòng 2 - 5 tháng và tối đa có thể kéo dài tới 2 năm. Mọt Sinoxylon anale Lesne xâm nhập vào gỗ trám trắng ở Lập Thạch - Vĩnh Phúc năm 1967, thời gian để hoàn thành vòng đời là 1 năm, trong khi đó loài một tre Dinoderus minutus F xâm nhập vào tre ngà cũng tại Lập Thạch - Vĩnh Phúc trong cùng một thời điểm thì thời gian để hoàn vòng đời trong khoảng thời gian 3 tháng, mỗi năm 4 - 5 vòng đời. Thời gian bay của họ mọt dài diễn ra vào đầu mùa xuân, trong xuốt mùa hè và mùa thu, mùa đông ít hoạt động.
Mọt dài phân bố ở các nước nhiệt đới và Á nhiệt đới, ở Việt Nam mọt dài sống phổ biến ở trong rừng, xâm nhập vào những cây gỗ sau khi chặt hạ, gỗ sau khi sơ chế ở các nhà máy, xưởng gỗ, mọt xâm nhập ào gỗ, chúng đào hang lấy thức ăn làm hư hỏng gần như hoàn toàn phần gỗ rác, đối với gỗ có rác lõi phân biệt thì mọt dài ít khi xâm nhập vào phần gỗ lõi như gỗ lim xanh và gỗ lim vàng, vì vậy họ mọt này có tác giả còn gọi là mọt gỗ rác.
Đối với mọt dài có một đặc tính sinh học khác với các họ côn trùng cánh cứng khác là :Cả sâu non và mọt trưởng thành đều đục gỗ và tiêu hóa lượng gỗ mà chúng đã đào ra .Ngoài chất đường và bột có trong gỗ là thức ăn chính của mọt dài cần cần thiết cho cả sâu non và mọt trưởng thành ,mọt dài còn có khả năng tiêu hóa được xen-lu-lô .Những đặc tính sinh học này có quan hệ đến phương pháp phòng trừ mọt dài .Việc phòng trừ mọt dài có nhiều phương pháp ở đay chỉ sin đề cập đến 2 phương pháp đơn giản .
Phương pháp này không cần dùng đến hóa chất độc hại mà ngâm gỗ ,tre xuống nước tròg thời gian 6 tháng đến 1 năm ,để các vi sinh vật phân giải lượng đường và bột là thức ăn chính của mọt dài ,trong gỗ lúc này còn chất xen-lu-lô là chính ,mọt dài không thể chỉ dùng riêng chất xen-lu-lô để phát triển được .
Ngâm gỗ ,tre xuống ao hồ làm cho thức ăn chính của mọt dài là đường và bột bị phân giải ,không những phòng được sự xâm nhập của mọt dài mà còn phòng được cả xén tóc hại gỗ nữa .Phương pháp bảo quản này cần ngâm gỗ ,tre trong thời gian dài ,thường áp dụng ở các vùng nông thôn ,vùng xâu ,vùng xa chưa có điều kiện bảo quản bằng hóa chất .
Dùng các loại gỗ có đường kính mạch gỗ nhỏ (gỗ mịn) làm cho mọt gỗ không đặt trứng vào mạch gỗ được ,cũng bị hạn chế sự xâm nhập và phá hoại của mọt dài ở mức độ nhất định .
Để ngăn ngừa mọt dài tấn công vào gỗ có thể dùng các loai thuốc bảo quản gỗ như LN-3 với nồng độ 7% ;XM-5A 7% ;XM 5B 7% ngâm thường với thời gian 48 - 72 giờ ,có thể phòng được mọt dài xâm nhập vào gỗ ở trong các công trình xây dựng .
Khi mọt dài xâm nhập vào gỗ thì việc diệt khó khăn hơn ,tốn kém hơn mà kết quả lại có phần hạn chế .Trong thường hợp mọt dài đã xâm nhập vào gỗ có thể dùng thuốc BQG-1 ,để quét ,phun lên gỗ ,hoặc bơm trực tiếp vào các lỗ mọt để diệt chúng với lượng thuốc 350g/mét vuông. Một điều chú ý là BQG-1 là loại thuốc bảo quản dạng dầu và độc hại nên hiện nay không khuyến khích dùng loại thuốc này.
Theo Lesne 1938 và những tác giả sau này đã chia họ mọt dài Bostrychidae ra làm 5 phân họ:
- Euderiinae
- Dysidinae
- Hendecatominae
- Dinoderinae
- Bostrychinae.
Ở Việt Nam có 2 phân họ: Dinoderinae và Bostrychinae.
Bảng khóa định loại các phân họ của Bostrychidae (mọt trưởng thành) 1(2) Các đốt bàn chân ngắn hơn so với đốt chầy, đốt cuối cùng của bàn chân dài bằng hoặc dài hơn các đốt trước nó hợp lại. Đốt thứ 3 và đốt thứ 4 có kích thước gần bằng nhau. Tấm lưng ngực: Trước gồ cao lên và tròn ở mép trước, các răng ở giữa của mép trước ngực trước phát triển hơn so với những răng ở hai bên. Đỉnh đầu bóng hoặc có những chấm nhỏ. Phân họ Dinoderinae. 2(1) Các đốt bàn chân dài bằng học dài hơn đốt chầy. Đốt cuối cùng của bàn chân ngắn hơn so với các đốt trước nó hợp lại. Đốt thứ nhất của bàn chân rất nhỏ. Đốt thứ 2 lớn hơn và dài hơn đốt thứ 1, đốt thứ 3 và đốt thứ 4, đốt thứ 5 dài hơn các đốt trước. Đầu thường ẩn dưới tấm lưng ngực trước. Chùy râu có 3 đốt. Hai góc trước của ngực trước thường mỗi bên có một gai móc câu rõ ràng, nhất là ở con đực. Giữa mép trước của tấm lưng ngực trước lõm vào, nhất là ở con đực trong cùng mối loài. Đỉnh đầu có những hạt nhỏ hoặc những đường gờ dài rất nhỏ. |
==================================================
Trung tâm diệt mối và côn trùng Anh Tuấn - Hà Nội
Địa chỉ :Số 9 ,ngõ 181 - Xuân Thủy - Cầu Giấy Hà Nội
Điện thoại :0979484855
Email : tranvankhang201981@gmail.com
Website : dietmoianhtuan.com