Mối là loài côn trùng xã hội, chúng sống thành từng tập đoàn với số lượng hàng triệu cá thể. Mối có khả năng đục xuyên vữa tường (nhờ chất axít có trong miệng với gốc bazơ có trong vữa tường) lên mối có thể di chuyển từ dưới lòng đất lên những độ cao lớn của các tòa chung cư cao tầng, cùng với khả năng hoạt động ngày đêm không nghừng nghỉ và khả năng sinh sản vô hạn lên tới 36000 trứng trong một ngày, nên chúng có thể phá hoại gây ra những thiệt hại lớn hàng năm như: chập cháy điện, sụt nền móng, nứt nở tường, phá hủy mục rỗng nhiều đồ vật trang trí bằng gỗ có giá trị, phân hủy tài liệu quan trọng, mục nát quần áo,...
Mối Trong hệ thống phân loại, thì mối là côn trùng nguyên thủy thuộc bộ cánh cứng bằng (Isoptera), có họ hàng gần gũi với gián, niêm đại của mối có đến 200 triệu năm (Zalessky 1973), còn kiến thì niêm đại tồn tại của nó ước khoảng 70 triệu năm, nên người ta nói rằng mối là tổ tiên của lớp côn trùng, phương thức sinh sống của mối (Isoptera) và ong, kiến (Hymenoptera) là rất giống nhau, chúng là côn trùng xã hội, đều sống thành quần thể, nó đã cùng với niêm đại tồn tại của loài người không đến 1 triệu năm.
Do đó tính đặc thù phương thức sinh sống của mối, hình thành giữa các cá thể trong một quần thể đồng nhất có những biến hóa rất lớn, thời gian tồn tại của một quần thể rất dài, ít cũng mấy năm, thường là mười năm, ở vùng nhiệt đới có khi vượt quá một trăm năm. Do mối có khả năng sống kín đáo, nên khi nghiên cứu chúng trong phòng thí nghiệm cũng có những khó khăn khi nuôi mối để quan sát. do vậy những hiểu biết của con người về mối có những hạn chế nhất định. Theo tài liệu thống kê của Emerson (1952) đã phát hiện được 1855 loài mối trong đó ước tính có 1762 loài hiện nay đang tồn tại và ước tinhd hiện nay đang có 93 loài hóa thạch. Theo bản danh lục côn trùng về mối trên thế giới của Snyder năm 1949 để từ đó bổ sung tu chỉnh cho phong phú thêm. Trong thời gian 12 năm từ năm 1952 đến năm 1963 là ngừng thì trên thế giới đã phát hiện thêm 150 loài mối mới đưa tổng số loài mối lên trên 2000 loài, trong đó bao gồm cả các loài mối hóa thạch. Đại bộ phận mối phân bố ở các vùng á nhiệt đới, một số ít phân bố đến Bắc của châu Á, Bắc Phi, các nước ven biển Địa Trung Hải, Bắc Mỹ giáp giới với Canada, Bắ của châu Mỹ, châu Úc. Nói về toàn cầu thì châu Phi là đại bản doanh phân bố các loài mối (Thái Bang Hoa 1964).Ở nước ta, Phú Thọ là một tỉnh có nhiều loài mối phân bố, còn các tỉnh khác thì ít nhiều đều có phân bố của mối. Gần đây theo thống kê chưa đầy đủ đã có 83 loài mối phân bố trên khắp đất nước ta (Nguyễn Đức Khảm 1976, 1989).
Mối là loài côn trùng nguyên thủy thuộc bộ cánh cứng, niêm đại tồn tại của mối có đến 200 triệu năm. Phương thức sống của mối là sống thành quần thể và gọi là côn trùng xã hội.
Những cá thể mối trong cùng một loài từ một đôi mối vua, mối chúa đầu tiên (nguyên thủy) sinh ra thành quần thể và trong quần thể ấy có nhiều đẳng cấp: mối vua, mối chúa, mối lính, mối thợ, mối non, mối cánh...và mỗi đẳng cấp ấy có chức năng khác nhau nên được gọi là côn trùng xã hội.
Đàn mối (chúng ta quen gọi là tổ mối) tùy theo giống mối từ hàng nghìn đến hàng vạn có khi tới hàng triệu con.
Trên trái đất mối phân bố chủ yếu trong một dải quanh xích đạo giữa vĩ tuyến 45° bắc và vĩ tuyến 45° nam. Châu phi là nơi tập trung nhiều mối. Lãnh thổ Việt Nam nằm trong giải phân bố này nên khá nhiều mối.
Trên thế giới có 2500 loài mối, theo kết quả điều tra bước đầu cho đến nay đã phát hiện hơn 1000 loài mối ở nước ta.
Theo tài liệu đào tạo chống mối nâng cao của Mỹ thì côn trùng gây hại gỗ xâm hại khốc liệt nhà cửa, chúng gây ra thiệt hại tài sản đến 2,5 tỉ USD. Chỉ riêng mối cũng gây thiệt hại tới 1,5 tỉ USD trong hơn 600.000 gia đình Mỹ mỗi năm.
Mối sinh sống và làm tổ trong lòng đất, rồi di chuyển xuống theo mạch nước ngầm để lấy nước vào mùa khô và dâng lên trên úng vào mùa lũ. Đồng thời mối đào hang thành những hầm trong lòng đất, đường giao thông, đê điều, cầu cống, kho tàng, bến bãi...gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, cơ sở vật chất và đặc biệt nguy cơ tiềm ẩn đến tính mạng con người. Đối với các công trình kiến trúc, mối không chỉ phá hoại tài sản, nội thất trag thiết bị bên trong...mà mối còn gây tổn thương lớn về hồ sơ, tài liệu lưu trữ, hệ thống điện nước...Hằng năm, Nhà nước và nhân dân đã chi hàng ngàn tỉ đồng cho công tác phòng chống mối và khắc phục ,sửa chữa đê điều và các công trình do mối gây hại.
Đặc tính sinh vật học của mối là sinh sống thành quần thể và quần thể này là một dơn nguyên tổ thành quần thể mối. Trong quần thể mối trưởng thành bao gồm rất nhiều cá thể. Ở trong quần thể mối đẳng cấp hơi thấp như mối gỗ họ Kalotermitidae thì có từ 100 đến mấy nghìn cá thể, còn trong quần thể mối đẳng cấp hơi cao như mối đất cánh đen Odontotermes formosanus Shiraki (Termitidae) thì có đến 2 triệu cá thể.
Sự lớn nhỏ của quần thể và sự ít nhiều cá thể trong quần thể không những tùy thuộc vào chủng loại khác nhau, mà ngay trong một quần thể đông nhất cũng thay đổi khác nhau tùy theo thời tiết, các chất dinh dưỡng và điều kiện sinh sống không giống nhau, dẫn đến quá trình suy vong và phát triển của quần thể mối cũng thay đổi. Như nói ở trên, một quần thể nói chung là một đơn nguyên sinh sống, nếu như mối sống đơn lẻ hoặc sống với số lượng quá ít thoát ly quần thể thì không thể tồn tại, đó là sự khác nhau rõ ràng giữa côn trùng sống đơn lẻ như côn trùng cánh cứng (Coleoptera) và mối sống quần thể (Isoptera).
Trong quần thể mối có 2 loại hình lớn:
- Mối sinh sản: mối vua, mối chúa.
- Mối không sinh sản: mối lính (mối bảo vệ), mối thợ (mối lao động).
Loại hình này có thân hình tương đối lớn, nhất là mối chúa có phần bụng cực kỳ to. Cơ thể chúng có cơ quan sinh sản phát dục hoàn chỉnh, nên trong quần thể mối chúa có tác dụng giao phối vá đẻ trứng, về nguồn gốc và hình thái không giống nhau, nên mối sinh sản có thể chia ra làm 3 đẳng cấp như sau:
1. Mối vua và mối chúa nguyên thủy
Mối cánh trưởng thành sau khi bay giao hoan, rụng cánh đã ghép đôi và sinh sản gọi là mối vua và mối chúa nguyên thủy, chúng là kẻ sáng lập đầu tiên một quần thể mối, cho nên trong quần thể mối phần lớn có đẳng cấp này. Đặc điểm về mặt hình thái, màu sắc của thân hơi thẫm và rắn hơn, có mắt kép và mắt đơn phát triển, mặt lưng ngực giữa và ngực sau còn giữ lại vẩy cánh, sức sinh sản lớn.
Phần lớn trong một quần thể mối chỉ có một đôi mối vua và mối chúa nguyên thủy, nhưng cũng có trường hợp có 2 hoặc có 3 đôi mối vua và mối chúa: ví dụ - Giống mối đất Odontotermes và Macrotermes thường có hiện tượng này. Loài mối đen Odontotermes formosanus Shiraki thì hiện tượng nhiều mối vua và mối chúa trong một quần thể đồng nhất là rất phổ biến, có khi nhiều đến 5 vua 8 chúa, trong đó thường đếm được mối vua ít hơn mối chúa. Cái đó có thể là kết quả của hiện tượng mối vua chết sớm hoặc sự trốn chạy của mối vua khi xây dựng tổ mối, hiện tượng này còn chưa khẳng định.
2. Mối vua, mối chúa bổ sung cánh ngắn
Loại mối này có thể không phải là đẳng cấp tồn tại phổ biến. Về đặc trưng hình thái thì mầu sắc của thân là hơi nhạt và thân hơi mềm có mắt kép, tấm lưng ngực giữa và ngực sau có mầm cánh nhỏ, ngắn giống như cánh con cào cào còn non. Sức sinh đẻ của nó kém hơn mối vua và mối chúa nguyên thủy như đã nói ở trên, về số lượng thì nói chung là nhiều hơn so với mối vua và mối chúa nguyên thủy.
Ví dụ: Trong một quần thể mối Globitermes audax Silvestri cùng một lúc thấy được 43 mối chúa cánh ngắn. Mối vua, mối chúa cánh ngắn này sau khi mối vua và mối chúa nguyên thủy chết thì mới xuất hiện, nhưng cũng có khi tồn tại đồng thời mối vua và mối chúa nguyên thủy.
3. Mối vua, mối chúa không cánh
Cũng giống như mối vua mối chúa cánh ngắn, loại này không tồn tại phổ biến trong chủng loại mối, nhưng so với mối vua và mối chúa cánh ngắn càng ít thấy hơn. Về mặt hình thái thì, màu sắc thân thể rất nhạt thường thường là màu vàng, thậm chí màu trắng, thân thể so với mối vua, mối chúa cánh ngắn càng mềm, không có mắt kép, và đặc biệt là trên tấm lưng của ngực giữa và ngực sau không có mầm cánh.
Đẳng cấp này thường chỉ tồn tại trong quần thể khi mối vua và mối chúa nguyên thủy mất đi. Ngoài 3 loại đẳng cấp trên có khi còn có loại hình trung gian giữa 3 đẳng cấp trên. Mối vua, mối chúa cánh ngắn và mối vua, mối chúa không cánh không bao giờ bay ra khỏi tổ vì không có cánh đầy đủ để bay giao hoan phân đàn như mối cánh trưởng thành đồng loại.
+ Loại hình mối không sinh sản
1. Mối lính (mối bảo vệ)
Mối lính thuộc đẳng cấp thứ 2 trong loại hình không sinh sản. Trong chủng loại mối, thì ngoài giống Anoplotermes không có mối lính ra, những chủng loại mối còn lại thì đều có mối lính. Mối lính có con đực và con cái nhưng không sinh sản được. Đặc trưng hình thái của chúng tương đối rõ ràng, trừ phân họ mối mũi dài Nasutitermitinae Hare (Termitidae) ra, còn mối lính các họ khác đều có hàm trên phát triển và dài. Hàm trên của mối lính trong phân họ Nasutiermitinae rất nhỏ, nhưng phần trán đột nhiên kéo dài ra thành dạng ống hoặc dạng cái dùi, gọi là ồng trán, ở đỉnh nhọn của ống trán này có lỗ thông ra ngoài, có thể tiết ra một chất dịch độc có tính axít.
Do mối lính có hàm trên phát đạt hoặc ống trán có khả năng tiết chất độc, nên vai trò của mối lính là kẻ bảo vệ quần thể mối, ngoài nhiệm vụ bảo vệ ra, mối lính không tham gia xây dựng quần thể mối.
Do chuyên hóa bộ phận miệng dùng để bảo vệ, nên mối lính đã mất đi năng lực tự lấy thức ăn cho mình, để tồn tại cho mối lính, mối thợ đã phải mớm thức ăn cho mối lính, một số loài mối có 2 loại mối lính: mối lính to và mối lính nhỏ.
2. Mối thợ
Mối thợ là loại mối đẳng cấp chiếm đông nhất trong loại hình không sinh sản của quần thể mối. Mối thợ cũng có mối đực và mối cái nhưng cơ quan sinh sản không hoàn chỉnh nên không đẻ được trứng.
Mối thợ chỉ đảm nhận nhiệm vụ kiếm thức ăn, xây tổ, làm đường mui, mớm thức ăn, chăm sóc mối non, vận chuyển trứng mối,...để duy trì sinh sống trong quần thể.
Về hình thái mối thợ gần giống với mối non, nhưng thân hình to hơn với mối non, các bộ phận của mối thợ khác hẳn với mối non: mối thợ thân hình màu thẫm hơn, nhất là phần miệng, hai hàm trên của mối thợ được ky tin hóa cao, có màu nâu hoặc nâu thẫm. Đai đa số trong chủng loại mối, mối thợ chỉ có một loại nhưng một số loài có 2 loại là mối thợ to và mối thợ nhỏ.
Thời kỳ bay giao hoan của quần thể mối tùy thuộc vào chủng loại mối và vùng phân bố. Theo kết quả nghiên cứu ở nước ta mối bay giao hoan từ tháng 4 đến tháng 8 nhưng mạnh nhất vào tháng 4, 5, 6 và 7.
Bay giao hoan hay còn gọi là bay phân đàn. Mối cánh sau lần lột xác cuối cùng thì thành mối cánh trưởng thành bay giao hoan từ sau mùa xuân, trời ấm áp vào buổi trưa hoặc buổi chiều Khả năng bay của mối cánh chỉ từ vài mét đến vài chục mét tùy theo sức gió và hướng gió. Sau khi rơi xuống đất thì con đực đi tìm con cái, sau một lúc tiếp xúc thì 4 cánh rụng đi.
Trong quá trình bay và rơi xuống đất phần lớn mối cánh bị diệt vong, chỉ một vài đôi mối cánh gặp điều kiện thuận lợi dùng răng đào tổ làm nơi trú ngụ, sau hôn phối khoảng một tuần thì đẻ trứng, lúc đầu số trứng rất ít về sau tùy theo sự trưởng thành mà tốc độ đẻ trứng tăng dần.
Sau khoảng một tháng thì trứng nở thành mối non, mối non có màu trắng và rất mềm, hình dạng giống mối thợ trưởng thành. Từ mối non sau một tuổi qua một vài lần lột xác thành mối lính. Mối non tương lai trở thành mối cánh thì giữa ngực trước và ngực sau sinh ra các mầm cánh, thời gian thêm tuổi thì cánh dài thêm. Mối cánh trưởng thành thường to hơn mối lính và mối thợ trưởng thành. Mối non trở thành mối thợ ít có biểu hiện rõ ràng.
Sự phát triển của đàn mối rất chậm trong nhiều năm, trứng đẻ không liên tục. Khi mối chúa trưởng thành nó đẻ nhiều trứng hơn và bụng trở lên to hơn. Khi khả năng mối chúa đẻ tối đa có thể đúng bằng số lượng các con mối già chết đi và số lượng mối phân đàn bay đi.
Đàn mối càng lớn khi các con mối được sinh sản hàng năm tăng lên. Thời gian ít nhất từ 3 đến 4 năm hay dài hơn 8 đến 10 năm, từ các con mối ban đầu đủ lớn đến mức sẽ có một số bay bớt đi (bay giao hoan phân đàn).
Phần lớn các loài mối sống ở dưới đất nhưng cũng có những loài sống trong gỗ. Tổ mối là đại bản doanh sinh hoạt tập trung của đàn mối, tùy theo loài mối và điều kiện ngoại cảnh có sự thay đổi. Có 3 loại tổ mối:
- Mối sống trong gỗ: thường làm tổ trong gỗ khô như giống Cryptotermes hoàn toàn không có liên hệ với đất và nước. Tổ này thường không lớn, các cấu tạo đơn giản có những lỗ nhỏ thông từ hang này sang hang khác và thông ra bên ngoài.
- Mối sống trong đất: tổ này của các loài mối dựa vào đất làm tổ thường ở gần các rễ cây, gỗ chôn trong đất, tổ này có thể chìm trong đất, hoặc nửa nổi, nửa chìm trong đất hoặc nổi trên mặt đất như giống Odontotermes, Macrotermes...ta thường thấy ở trong vườn, rừng hoặc đê đập...
- Mối sống trong gỗ và đất: thường ở trong gỗ khô chôn trong đất, có đường giao thông nối liền với đất và nước như tổ của giống mối nhà Coptotermes.
Tổ mối có nhiệt độ và độ ẩm rất ổn định mặc dù nhiệt độ và độ ẩm bên ngoài thay đổi, nghĩa là cân bằng sinh thái rất tốt, đảm bảo đàn mối đặc biệt là mối chúa sống lâu đến vài chục năm để đẻ ra hàng triệu trứng.
Kết quả thí nghiệm nhiệt độ môi trường từ 28°C đến 35°C (dao động 7°) nhiệt độ trong tổ mối chỉ biến động từ 24,8 đến 25,4°C (dao động 0,6°) .
Độ ẩm môi trường từ 84 đến 95% (dao động 11%) trong khi độ ẩm của tổ mối chỉ biến động từ 85,5 đến 86,5% (dao động 1%).
Mối sử dụng rất nhiều loại thức ăn, nhưng thức ăn chủ yếu của mối là thực vật (gỗ...) hoặc các vật liệu có gốc xen-lu-lô như giấy, vải, len, dạ có khi cả trứng mối, thậm chí khi khan hiếm thức ăn chúng ăn cả da, xác động vật thậm chí cả mối non (Nguyễn Đức Khảm 1976).
Tuy nhiên trong quá trình kiếm thức ăn mối phá hoại nhiều loại vật liệu khác nhau như cao su, kim loại mỏng, vữa xi măng mác thấp và những thứ khác.
Thực tế chúng chỉ tiêu hóa được xen-lu-lô sản phẩm của gỗ như giấy là thức ăn chúng ưa thích bởi giấy gần như hoàn toàn bắng xen-lu-lô.
Khi đi kiếm ăn mối đi trong các đường mui do mối xây dựng đảm bảo an toàn cho mối. Đường mui thường ẩm, nếu khô hoặc bị bong ra nghĩa là mối đã bỏ đi nơi khác kiếm ăn. Việc nuôi dưỡng đàn mối chủ yếu là do mối thợ đảm nhận. Thoạt nhiên thức ăn qua miệng vào ruột, trong ruột mối có vi khuẩn sản xuất ra enzyme tiêu hóa được xen-lu-lô mặc dù mối là côn trùng thân mềm nhưng răng của chúng cứng hình răng cưa như mũi giáo có thể cắn đứt những mẩu gỗ rất nhỏ. Những loại mối này không ăn cây sống trừ mối Formosan.
Mối liên lạc với nhau cơ bản thông qua hóa chất gọi là Feremon mỗi đàn mối có một mùi đặc trưng, khi có kẻ lạ xâm nhập thì chúng phát hiện ra ngay, thông báo cho các mối lính qua tín hiệu Feremon để tấn công kẻ lạ mặt.
Nếu mối thợ tìm thấy một nguồn thức ăn mới, nó sẽ kéo theo các con khác đến chỗ đó bằng việc dải một đường hóa chất (Feremon) và mối thợ có thể va đầu vào thành ống, đường mui tạo ra rung động, các con mối khác nhận được thông báo cho toàn đàn mối để bảo vệ.
Qua trao đổi thức ăn cũng nâng cao việc nhận dạng các cá thể trong đàn mối.
Mối là loài côn trùng đa hình thái, mỗi một tổ tự hình thành một quần thể. Từ một đôi mối ban đầu (bố, mẹ) thường được gọi là mối vau, mối chúa, chúng bắt đầu sinh sản, không ngừng đẻ trứng, trứng nở ra mối non, từ mối non bắt đầu phân thành hai loại hình lớn: loại hình sinh sản và loại hình không sinh sản. từ hai loại này lại phân ra nhiều đẳng cấp.
- Loại hình không sinh sản gồm có mối lính, mối thợ.
- Ở một số loài cùng là mối lính lại có mối lính lớn và mối lính nhỏ, mối thợ lớn và mối thợ nhỏ (Mactotermes barneyi Light). Do hiện tượng đa hình thái đó mà việc định loại mối có lúc gặp những khó khăn.
Cũng như những côn trùng khác, cơ thể mối chia ra làm 3 phần là đầu, ngực và bụng, đầu có thể chuyển động và mang bộ phận miệng, mắt, râu đầu và còn mang thêm hai đôi cánh. Bụng có 10 đốt. Lỗ sinh dục con đực ở giữa mảnh bụng đốt thứ 9 và đốt thứ 10, còn lỗ sinh dục con cái nằm ở mặt bụng đốt thứ 7. Mức độ ky tin hóa của đầu và cơ thể mối không giống nhau.
Nói chung là mối cánh trưởng thành hơi rắn hơn so với mối lính và mối thợ. Cơ thể mối và các chi phụ có lông nhỏ. Thân mối có màu sắc từ trắng đến vàng, nâu cho đến đen, phần lớn là màu nhạt.
Chiều dài của mối lính và mối thợ từ vài mm đến mười mấy mm. Chiều dài mối cánh trưởng thành từ 10mm đến 30mm. Còn đối với mối chúa trưởng thành đã sinh đẻ nhiều, bộ phận bụng phình to, cơ thể có thể đạt từ 60 - 70mm. Hình thái bên ngoài mối thợ và mối non gần giônhs nhau, nhưng mối non toàn thân gần như màu trắng sữa kể cả miệng, còn đối với mối thợ thì màu thẫm hơn, đặc biệt là đôi hàm trên có màu nâu hoặc màu nâu đen đã được ky tin hóa cao nên rất chắc chắn. Cơ thể mối gồm 3 bộ phận được mô tả sơ lược như sau:
1. Đầu là phần phụ của đầu
Đầu thường có hình tròn, hình trứng hoặc hình chữ nhật. Sự biến hóa hình thái cũng rõ ràng hơn, đầu mối thợ và mối sinh sản phần lớn là tròn và hình trứng. Mặt lưng của đầu về phía trước thường có một đường ngấn dọc và một đường ngấn ngang hợp với nhau thành hình chữ T hoặc chữ Y, có đôi khi không rõ ràng. Đối với mối nhà Coptotermes đường ngấn này là chỗ thóp ở mối lính, thóp này tiết ra một dịch thể như sữa mang tính axít đặc quánh.
Đầu của mối cánh trưởng thành có một đôi mắt kép hình tròn hoặc hình gần tròn đính ở hai bên đầu, phía trước mắt kép về phía lưng mỗi bên thường có một mắt đơn trong xuốt không màu, một số ít loài không có mắt đơn.
Mắt kép của mối sinh sản bổ sung cánh ngắn tương đối nhỏ, còn đối với mối không sinh sản thì không có mắt hoặc đối với mối có đẳng cấp thấp tì phía sau râu đầu có mắt phát triển yếu ớt, ở cuối phía trước hai bên đầu có một đôi râu đầu, phần lớn các đốt râu có hình tròn hoặc viên chùy, cá biệt có đốt dài. Râu đầu có 9 - 30 đốt hình chuỗi hạt, Trong cùng một loài thì số đốt râu đầu của mối cánh trưởng thành là nhiều so với mối thợ và mối lính.
2. Miệng và phần phụ của miệng
Miệng ở cuối phần trước của đầu gồm có môi trên, hai hàm trên, hai hàm dưới và xúc biện hàm dưới, môi dưới và xúc biện môi, lưỡi (Hypophanynx).
3. Ngực và phần phụ của ngực
Ngực gồm có 3 đốt: Ngực trước, ngực giữa và ngực sau, mỗi đốt do những tấm ky tin hóa được sắp sếp theo vị trí thích hợp gọi là tấm lưng, tấm bên, tấm bụng, nhờ có chất màng liên kết các đốt ngực lại với nhau. Mỗi đốt ngực mang một đôi chân. Đối với mối cánh trưởng thành thì ở tấm lưng ngực giữa và ngực sau, mang một đôi cánh ở mỗi đốt.
Cánh được tạo thành bởi chất màng có hình dạng hẹp và dài, khi không bay thì 4 cánh xếp trên lưng và hướng về phía sau và dài vượt quá phần cuối của bụng.
Cánh trước hơi dài hơn cánh sau. Sự phân bố gân cánh trước và cánh sau cũng không hoàn toàn giống nhau. Với mối ở đẳng cấp thấp thì sự khác biệt này lớn còn với mối ở đẳng cấp cao thì sự khác biệt này ko nhiều . Sau khi bay lượn giao hoan cánh của mối cánh trưởng thành bị dứt rời ra từ khớp gẫy của cánh. Bốn cánh bị rơi ra , phần gốc cánh còn giữ lại được có dạng gần như hình tam giác gọi là vảy cánh . Kích thước to nhỏ và hình dạng của vảy cánh biển đổi khác nhau tùy theo loài . Sự biến hóa của gân cánh có những thay đổi lớn , nói chung theo quy luật , cánh của mối ở đẳng cấp thấp thì phức tạp , còn cánh mối ở đăng cấp cao thì đơn giản (H. 60). Gân (mạch) cánh ở mối cánh trưởng thành thuộc họ Kalotermitidae có thể nhìn thấy được gân mép trước (c), gân phụ mép trước (sc), gân đường kính (r), gân giữa (m), gân khuỷu (cu), gân phân kính (rs).
4. Chân
Mặt bụng của mỗi đốt ngực sinh ra một đôi chân, chân theo kiểu bò, nói chung là ngắn. Mỗi chân gồm có đốt háng (coxa), chuyển (trochanter), đùi (fermar), chày hay ống (tibia) và bàn tarsus). Đốt háng và đốt chuyển rất ngắn, đốt đùi và đốt chày thường dài, mép bên đốt chày thường sinh ra một hàng gai, cuối đốt chày có 2- 3cái gai cứng bàn chân bao gồm mấy đôts nhỏ , đối với họ mối Mastotermitidae bàn chân là 5 đốt còn bàn chân họ mối Termopsidae thì sợ phâ chia đốt không hoàn chỉnh , do vậy từ mặt dưới nhìn thấy 5 đốt , nhưng nhìn mặt lưng chỉ có thể thấy 4 đốt , đốt bàn chân của mấy họ mối còn lại đều là 4 đốt , ở cuối của đốt bàn chân sinh ra một đối vuốt cong.
5. Bụng
Bụng mối có dạng hình trụ hoặc hình quả mướp , do 10 đốt tạo thành , mỗi đốt có 1 tấm lưng , tấm bụng của đốt thứ nhất của mặt bụng thường thái hóa thành một phiến nhỏ , từ đốt thứ 2 trở về sau , mỗi đốt đều có tấm bụng rõ ràng đối với con đực của mối cánh trưởng thành thì hình dạng của tấm bụng đốt thứ 2 đến đốt thứ 9 là có độ lớn giống nhau , đốt thứ 10 phân ra làm 2 lỗ sinh dục ở giữa tấm bụng đốt thứ 9 và 10 . Còn con cái mối cánh trưởng thành thì độ dài của tấm bụng thứ 7 thường lớn hơn các đốt khác còn lại . Trên mép các tấm lưng có nhiều lông . Phần cuối bụng có đối lông đuôi (cerci) và một đôi châm đuôi (styli).
1. Chủng loại mối và phân bố
Cho đến bây giờ khó có thể tìm được những tài liệu nghiên cứu về phân loại mối hoặc những tác hại của mối trong các thư tịch cổ xưa nhất ở nước ta. Vào đầu thế kỷ 20 Holmgren 1922 đã mô tả các loài mối và tiếp đó là Bathellier 1927 đã có công trình nghiên cứu về hệ thống phân loại, sinh học về mối ở Đông Dương, trong tài liệu này có 19 loài mối đã được nghi nhận phân bố ở Đông Dương, trong đó có 17 loài phân bố ở Việt Nam. Sau 1945, qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nghiên cứu về mối tạm thời bị gián đoạn.
Hòa bình lập lại năm 1954 đất nước vẫn 2 miền chia cắt, việc nghiên cứu về mối vẫn 2 miền riêng lẽ.
Ở Bắc Việt Nam những nghiên cứu về mối được bắt đầu từ năm 1962 và sau đó, những kết quả nghiên cứu về thành phần, phân bố và sinh học về mối đã được công bố, đáng chú ý là công trình "Mối (côn trùng bộ Isoptera) ở miền Bắc Việt Nam" (Luận văn Khoa học Nguyễn Đức Khảm) với một nội dung cơ bản của luận văn này tác giả đã tu chỉnh và xuất bản thành tập sách "Mối ở miền Bắc Vệt Nam 1976".
Trong tác phẩm này có 4 họ mối (Kalotermitidae, Termopsidae, Rhinotermitidae và Termitidae), 20 giống gồm 61 loài mối thuộc bộ cánh bằng (Isoptera) đã được nghi nhận ở Bắc Việt Nam. Gần 13 năm sau cũng chính tác giả đã thông báo bổ sung về tên các loài mối được phát hiện ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong tài liệu "Danh sách những loài mối ở Việt Nam đã được tu chỉnh và bổ sung", chính tác giả đã bổ sung thêm 3 giống gồm 21 loài, đưa tổng số mối được phát hiện ở Việt Nam đến năm 1989 là 23 giống gồm 82 loài mối thuộc bộ cánh bằng ((Isoptera) ( Nguyễn Đức Khảm 1989). Tiếp theo đó khi nghiên cứu về một loài mối hại đê đập Vũ Văn Tuyển (1982) đã bổ sung thêm một số loài mối hại đê.
Ở Nam Việt Nam; Theo tài liệu của Lâm Bình Lợi, Patrick y Durand (1971) thì ở Việt Nam có 3 họ (Kalotermitidae, Rhinotermitidae và Termitidae không có họ Termopsidae), 18 giống gồm 37 loài được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó Kalotermitidae có 1 giống gồm 1 loài, Rhinotermitidae có 3 giống gồm 7 loài và Termitidae có 14 giống gồm 29 loài. Gần đây trong công trình "Mối Macrotermes (Termitidae, Isoptera) ở Việt Nam và biện pháp phòng trừ (Luận văn Khoa học 1997" của Nguyễn Tân Vương) tài liệu này đưa ra 14 loài mối thuộc giống Macrotermes được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó có 4 loài mới có khu hệ và 3 loài mới cho kha học. Như vậy ở Việt Nam có 18 giống gồm 44 loài thuộc Isoptera được phát hiện từ Đèo Ngang trở vào (Lâm Bình Lợi 1971 và Nguyễn Tân Vương 1997).
2. Phòng trừ mối
Nhìn lại phương pháp phòng trừ mối ở các nước lân cận gần đây cho thấy rằng "Phương pháp phòng trị mối" của Lý Thủy Mỹ được xuất bản bằng tiếng Trung Quốc năm 1958, và được Xuân Chỉ dịch ra tiếng Việt năm 1961 là một tài liệu được chú ý nhiều. Đối với cách diệt mối trong công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, thì Lý Thủy Mỹ chú ý đặc biệt đến cách tìm tổ và phun thuốc vào tổ trực tiếp để diệt mối, nhưng theo cách tìm tổ bằng kinh nghiệm, với những dụng cụ thô sơ như đèn pin và tuốc nơ vít thì chỉ tìm được những tổ mối nằm lộ trên mặt đất, còn những tổ ở sâu trong lòng đất thì thật khó tìm.
Những tổ mối mà tác giả nêu ra khi tìm được rồi phun thuốc vào để diệt chúng thực ra đó là những "tụ điểm" này mối đã tìm ra được thức ăn mà mối rất thích, nên mối đến rất đông, mà không phải là "tổ mối đích thực" vì tác giả không chứng minh được cái gọi là "tổ mối" được phát hiện đó là tổ chính hay tổ phụ và trong đó có mối vua hay mối chúa hay không? Vì lẽ đó phương pháp này có thể thành công trong khi tìm được "tụ điểm" của tổ mối, tức là nơi tập trung cá thể mối nhiều >15 - 20% tổng số cá thể trong trong tổ mối, thì sau khi phun thuốc có số lượng lớn cá thể mối (15 - 20%) bị lây nhiễm dẫn đến chết thối rữa đủ để làm mất cân bằng sinh thái trong tổ mối, làm cho cả tổ mối bị diệt. Và ngược lại nếu không tìm được tụ điểm của tổ mối (không phải là tổ mối đích thực vì trong đó hiện không có mối vua, mối chúa), thì số cá thể bị nhiễm thuốc quá ít (<10%) trong tổng số cá thể một tổ mối, thì khả năng phục hồi của tổ mối có thể diễn ra.
Trong tập sách năm 1958 của Lý Thủy Mỹ mới chỉ đề cập đến tìm tổ và phun thuốc diệt mối trong các công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, mà chưa nói đến nhử và diệt, do vậy cũng chưa chủ động để nhử một số lượng mối đủ lớn (15 - 20%) để khi phun thuốc làm cho mối lây nhiễm dẫn đến mất cân bằng sinh thái trong tổ mối làm cả tổ bị diệt.
Đối với cách diệt mối cho cây rừng và cây công nghiệp thì Lý Thủy Mỹ (1958) đã dùng phương pháp "dụ mối để diệt" . Bằng cách đào hố nhử với kích thước rộng 2,5 thước, dài 3 thước, sâu 2 thước (Trung Quốc) rồi để những mồi mà chúng thích ăn, khi kiểm tra có mối ăn nhiều thì phun thuốc diệt chúng.
Cả 2 phương pháp trên có những ưu điểm là trong một số trường hợp đã diệt được mối, làm cho tổ mối không phục hồi được, nhưng chưa chủ động hoàn toàn, nhất là đối với công trình xây dựng, nhưng qua đó đã có những gợi ý hay cho những gười nghiên cứu diệt mối sau này.
Khoảng 7 năm sau, tập sách của Thái Bang Hoa (1964: Trung Quốc kinh tế côn trùng chí, tập 8, Bạch Nghị) đã đưa ra phương pháp phun thuốc diệt tổ mối. Nội dung của phương pháp này là: Đem thuốc hữu hiệu phun trực tiếp vào trong tổ mối, có thể trong thời gian ngắn làm cho toàn bộ quần thể mối bị diệt tương đối triệt để, nhất là trong tổ mối to, sống tập trung như mối nhà (Coptotermes) thì hiệu quả càng rõ ràng, đó cũng là một phương pháp phòng trị mối được ứng dụng rộng rãi.
Phương pháp này được ứng dụng bằng 2 cách như sau:
1) Tìm tổ mối
2) Phun thuốc mối
Về cơ bản của phương pháp phun thuốc diệt mối được tác giả đưa ra hầu như không khác phương pháp của Lý Thủy Mỹ đã nêu ra ở trên là cùng tìm tổ và phun thuốc, nếu có khác là ở chỗ Thái Bang Hoa đã chọn lời khuyên rằng; Phương pháp tìm tổ phun thuốc thường áp dụng có hiệu quả để diệt mối nhà Coptotermes (Rhinotermitidae) nhưng áp dụng ít hiệu quả để diệt đối với các loài mối đất (Termitidae).
Những điều nghi nhận ở trên đây cho thấy rằng về phương pháp phòng trị mối nhà (Coptotermes) ở một số nước lân cận cho đến năm 1964 còn đang dừng lại ở phương pháp tìm tổ và phun thuốc để diệt, nhưng những phương pháp đã được nêu ra ở trên là những gợi ý đúng cho hướng đi sau này khi nghiên cứu diệt mối theo phương pháp lây nhiễm.
Ở nước ta, sau ngày giải phóng miền Bắc năm 1954, nhưng thực chất mãi tới năm 1961, sau khi thành lập Viện nghiên cứu Lâm Nghiệp, nay là Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam, thì công tác nghiên cứu phòng trừ mối mới được tiến hành do đòi hỏi cấp bách của sản xuất và đời sống lúc đó.
Trong quá trình nghiên cứu về bảo quản lâm sản nói chung và phòng trị mối nói riêng, những người nghiên cứu phòng trừ mối đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước kia và đã tìm hướng đi đúng.
Từ những nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất, tác giả Nguyễn Thế Viễn trong bài viết về (Phòng trừ mối trong xây dựng, Tập san Lâm Nghiệp (TSLN) Số 2 và 5 năm 1964) đã đưa ra nhận xét về đặc tính sinh vật học của mối và nghi nhận rằng ở Bắc Việt Nam có hai nhóm mối gây hại gỗ xây dựng là: Mối gỗ khô và mối đất (mối hại cây trồng, hại đê đập, hại đường sắt thuộc lĩnh vực khác), có lẽ danh từ mối gỗ khô, mối đất có tên gọi từ đó. Trong tài liệu này tác giả đã đưa ra cách diệt mối nên làm bẫy để nhử mối: đào 1 hố dài 100cm ngang 50cm, sâu 40cm, cho mồi nhử mối vào đó và tưới nước cho ẩm, đậy nắp lại, khi mối vào nhiều dùng thuốc SiF6NA2, DDT để phun diệt mối. Tác giả Nguyễn Thế Viễn là một trong những người đầu tiên đưa ra phương pháp dùng hố nhử để bẫy mối và diệt chúng trong các công trình xây dựng ở nước ta.
Cũng trong thời gian này, khi nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của mối và biện pháp phòng trừ mối cho công trình xây dựng (Tập san xây dựng (TSXD) số 3,5 và 8 năm 1964) tác giả Nguyễn Xuân Khu đã đưa ra phương pháp phòng chống mối cho công trình xây dựng bằng cách xây dựng một hệ thống cách ly mối, để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Với phương pháp này người ta tạo ra xung quanh công trình xây dựng một hệ thống hàng rào bằng các hố nhử mối với kích thước của hố nhử là: 40 - 50cm (rộng); 50 - 60cm (dài); 40 - 50cm (sâu), hàng rào hố nhử này cách nền móng từ 5 - 10m, trong hố nhử đặt mồi nhử mối, và có nắp đạy ở trên. Khi kiểm tra có nhiều mối trong hố nhử thì dùng thuốc bột, thuốc nước hoặc hun hơi xử lý diệt mối để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Đối với những phương pháp diệt và phòng mối đã kể trên tuy chưa hoàn chỉnh vì chưa chủ động nhử mối để diệt ở bất cứ nơi nào trong công trình xây dựng cũng như đã hạn chế sự phá hại của mối trong công trình xây dựng một cách tích cực.
Sau đó không lâu, công trình", năm 1971 của Nguyễn Chí Thanh đã được công bố. Thông qua những kết quả nghiên cứu có trong tập sách này cho thấy tác giả đã đi sâu nghiên cứu theo định hướng diệt mối theo phương pháp lây truyền và qua đó lý giải có tính thuyết phục về quá trình mối chết sau khi bị lây nhiễm bởi thuốc bột TM-67. Không dừng lại ở đó, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tính ổn định những nhân tố sinh thái (nhiệt độ, độ ẩm) trong một tổ mối trước khi phun thuốc và sự mất ổn định những nhân tố sinh thái trong tổ mối đó sau khi phun thuốc diệt mối dẫn đến cả tổ mối bị diệt mà không cần tìm tổ ,không cần đào bới. Những kết quả nghiên cứu đó đã làm phong phú thêm về đặc tính sinh học và sinh thái học của giống mối nhà Coptotermes. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bổ sung về giống mối nhà, tác giả đã chỉnh lý để xây dựng Luận văn Phó tiến sĩ và bảo vệ thành công năm 1996.
Trong quá trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Chí Thanh đã cải tiến cách nhử mối, từ hố nhử mối được thay thế bằng hộp nhử mối (hộp bằng các tông, bên trong đựng mồi nhử mối) mà các tác giả trước đó khi nghiên cứu về mối đã chưa đề cập đến. Trước kia muốn nhử mối phải đào hố nhử mối, và như vậy chỉ có thể áp dụng một cách thuận lợi đối với nhà nền đất, còn đào hố nhử mối ở những nhà có nền nhà bằng xi măng hoặc đá hoa, nhà cao tầng, biệt thự, mái nhà lợp ngói thì khó thực hiện vì sẽ ảnh hưởng đến độ bền vững và vẻ đẹp vốn có của công trình. Còn đối với hộp nhử mối thì nó sẽ khắc phục được những nhược điểm trên, vì hộp nhử mối có thể đặt hoặc buộc chặt vào bất cứ nơi nào có mối qua lại để nhử và diệt chúng trong các công trình xây dựng.
Những cải tiến từ hố nhử bằng thùng nhử và sau cùng là hộp nhử mối có ý nghĩa thực tiễn nhiều, vì có được hộp nhử mối con người sẽ chủ động dụ được nhiều mối từ tổ mối để diệt chúng một cách triệt để (ở đây chỉ mối nhà Coptotermes).
Tuy vậy không phải trường hợp nào cũng áp dụng phương pháp diệt lây truyền cũng thành công cả. Trong cuốn sách "Mối ở miền Bắc Việt Nam 1976" của Nguyễn Đức Khảm, tác giả nghi nhận rằng "Sau khi công trình nghiên cứu của Lý Thủy Mỹ ra đời một thời gian thì thành tựu đó cũng được áp dụng vào miền Bắc nước ta, song kết quả thì không được là bao và thường mối không bị diệt trong toàn tổ" (tài liệu dẫn trang 182-1976).
Mười năm sau, qua những nghiên cứu và thực nghiệm về diệt mối, Nguyễn Đức Khảm và Vũ Văn Tuyển (1985) và không xa với những kết quả nghiên cứu đã được công bố ở trong nước về "Diệt mối theo phương pháp lây truyền" của Nguyễn Chí Thanh (1971). Tác giả Nguyễn Đức Khảm (1985) đã nghi nhận "Trong một số trương hợp nhất là khi không có cách truy tìm được tổ chính hoặc khi thăm dò tổ chính gặp khó khăn do một nguyên nhân nào đó, thì việc sử dụng biện pháp lây nhiễm một cách đúng quy trình và có thể là việc cần thiết, và thuốc bột acsenic là loại thuốc được dùng để diệt mối bằng phương pháp lây nhiễm tốt nhất hiện nay, nhưng các hợp chất này là những chất có chứa độc tố cho mối chết, nên khi sử dụng thuốc phải theo đúng quy trình và quy định bảo hộ lao động.
Ở Việt Nam ngoài những công trình nghiên cứu về diệt mối theo phương pháp lây truyền, còn có những kết quả về "phòng mọt, mục cho gỗ" "chọn các loại gỗ có sức đề kháng với tự nhiên đối với mối", "tìm tổ để diệt, cách ly cơ giới đối với mối, phòng mối có trọng điểm", "xử lý chân tường để phòng mối", "phương pháp phóng xạ", "phương pháp thăm dò điện để tìm tổ mối và diệt chúng", "Bơm nước và thuốc sát trùng vào tổ mối để diệt chúng".
Ý nghĩa kinh tế của mối trong nền kinh tế quốc dân được biểu hiện ở các mặt có lợi và có hại do chúng gây ra.
Phần lớn các giống mối xâm nhập vào các công trình xây dựng, thủy lợi, đường sắt, đường biển,...đều biểu hiện mặt có hại của chúng. Hàng năm thiệt hại do mối gây ra trên thế giới cũng như ở nước ta là rất lớn. Ở Trung Quốc nhất là vùng Hoa Nam có đến 80% số nhà cửa, kho tàng, nhà lâu năm bị mối phá hoại (Thái Bang Hoa 1964). Ở nước ta mối không những xâm nhập vào nhà tranh vách nứa, mà còn xâm nhập vào những ngôi nhà xây dựng kiên cố bê tông cốt thép như khách sạn Hà Nội 11 tầng, Bệnh viện Nhi Thụy Điển 7 tầng, các biệt thự, các thư viện,...
Để khắc phục hậu quả do mối gây ra, mỗi công trình phải cần kinh phí 30 - 40 triệu hoặc hàng trăm triệu để sửa chữa. Đặc biệt là các vật tư nguyên liệu quý hiếm, các thư tịch cổ, các hiện vật bảo tàng có giá trị đặc biệt khi mối phá hại thì không thể tính bằng tiền bạc được. Ngoài các công trình mà mối phá hoại ra, mối còn phá hoại các cây trồng công nghiệp như: chè, cà phê, cao su, mía, bông làm cho cây chết hoặc sinh trưởng kém ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
Có rất nhiều ý kiến cho rằng những hoạt động của mối đảm bảo cho các thảm mục rừng nhiệt đới phân hủy nhanh chóng và thúc đẩy nhanh quá trình tuần hoàn vật chất trong trồng rừng (Ghilarov 1960).
Tham khảo bài viết hữu ích khác:
Mối gỗ ẩm Rhinotrmitidae Light
Mối nhà Xây-lan Coptotermes ceylonicus Holmgren
Họ mối đất Termitidae Westwood
Mối nhà Coptotermes Formosanus Shiraki
Tìm hiểu tổng quan về loài mối
=============================================