Dịch vụ diệt mối uy tín, giá rẻ tại Quận 8 chuyên nghiệp, có bảo hành dài hạn, sử dụng các phưong pháp diệt mối mới nhất và tiên tiến nhất. Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực diệt mối và côn trùng gây hại trong xuốt hơn 19 năm qua, chúng tôi luôn thấu hiểu được khách hàng và và nhiều kinh nghiệm xử lý diệt mối tận gốc an toàn, hiệu quả, tiết kiệm. Công ty diệt mối Anh Tuấn chúng tôi còn nhận phòng chống mối, diệt muỗi, diệt chuột, diệt gián, diệt kiến, rệp giường,...cho tất cả các phường tại Quận 8, toàn Quốc. Quận 8 thuộc thành phố Hồ Chí Minh, nơi có nền kinh tế phát triển nhanh và mạnh, dân cư tập trung đông đúc, với diện tích 19,11 km², dân số là 424.668 người, mật độ dân số đạt 22.222 người/km² tính đến năm 2019. Tại đây phát triển mạnh về thương mại, dịch vụ, du lịch, văn hóa, nhiều trung tâm thương mại, khu đô thị, trường học,...Nơi đây tập trung khu công nghệ cao, bao gồm những nhà máy nổi tiếng như: công ty nước giải khát Coca cola, Sam Sung, Redbull,...Quận 8 tập trung nhiều trường Đại học danh tiếng và các công trình xây dựng khác. Hiện nay công ty diệt mối Anh Tuấn nhận cung cấp dịch vụ diệt mối uy tín, giá rẻ tại Quận 8 cho tất cả các công trình xây dựng tại các phường như: nhà ở, công ty, cơ quan, khu di tích, kho tàng, trường học, bệnh viện, khu trung tâm thương mại, kho hàng hóa, nhà hàng, khách sạn,...
Quân 8 có dân cư tập trung đông, nhà cao tầng mọc san sát nhau, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm nên chịu ảnh hưởng rất mạnh của các sinh vật hại, trong đó đặc biệt nguy hiểm là mối. Mối là sinh vật phong phú về loài, đa dạng về tác hại, sinh trưởng nhanh, khả năm thích ứng cao với điều kiện môi trường. Quận hiện nay có rất nhiều loại mối sinh sống và gây hại, trong đó đặc biệt nguy hiểm là các loại mối đất, mối gỗ ẩm và mối gỗ khô. Chúng có thể phá hoại gây ra những thiệt hại lớn hàng năm như: chập cháy điện, sụt nền móng, nứt nở tường, phá hủy mục rỗng nhiều đồ vật trang trí bằng gỗ có giá trị, phân hủy tài liệu quan trọng,...
Công ty TNHH Kinh Doanh Dịch Vụ Diệt Mối Anh Tuấn
Địa chỉ: Số 160 An Dương Vương - Phường 16 - Quận 8 - TpHCM
Liên hệ diệt mối qua Hotline: 0979 48 48 55.
Công ty diệt mối Anh Tuấn chuyên cung cấp dịch vụ diệt mối uy tín, giá rẻ tại Quận 8 cho: nhà ở, công ty, cơ quan, khu di tích, kho tàng, đê điều, nhà hàng, khách sạn, kho hàng hóa và nhiều công trình xây dựng khác với các chuyên gia cố vấn đầu ngành và đội ngũ nhân viên kỹ thuật giàu kinh nghiệm, tận tâm, trung thực. Cam kết diệt mối tận gốc an toàn, không cần đảo bới, tìm tổ, không ô nhiễm môi trường bằng các phương pháp mới nhất và tiên tiến nhất. Thuốc diệt mối chính hãng, có trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn.
1. Dịch vụ diệt tận gốc các loại mối phá hại công trình xây dựng như: diệt mối gỗ ẩm (mối nhà), diệt mối đất, diệt mối gỗ khô, diệt mối cánh, diệt mọt gỗ.
2. Diệt mối xông khuân cửa, cầu thang, tủ bếp, ổ điện, trần gỗ, sàn gỗ, ốp chân tường gỗ, tủ tài liệu, két sắt, tủ quần áo, kho hàng...
3. Tư vấn, thiết kế, thi công xử lý phòng chống mối, mọt ngay từ nền móng cho các công trình bắt đầu xây dựng mới.
4. Dịch vụ diệt mối, diệt muỗi, diệt kiến, diệt gián, diệt chuột...bằng các hóa chất thế hệ mới (chỉ phun một lần duy nhất nhưng có tác dụng diệt trừ và xua đuổi côn trùng trong thời gian từ 4 - 6 tháng, thuốc không mùi, không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường).
5. Khử trùng các kho tài liệu, kho hàng hóa...bị côn trùng gây hại tấn công.
6. Kinh doanh các loại thuốc phòng chống mối, mọt, các loại thuốc bảo quản gỗ, thuốc diệt côn trùng: muỗi, kiến, gián...
7. Cung cấp hộp nhử mối chất lượng cao, dễ nhử mối, mồi ngon trên toàn Quốc.
Mối là loài côn trùng xã hội, chúng sống thành từng tập đoàn với số lượng hàng triệu cá thể. Mối có khả năng đục xuyên vữa tường (nhờ chất axít có trong miệng với gốc bazơ có trong vữa tường) lên mối có thể di chuyển từ dưới lòng đất lên những độ cao lớn của các tòa chung cư cao tầng, cùng với khả năng hoạt động ngày đêm không nghừng nghỉ và khả năng sinh sản vô hạn lên tới 36000 trứng trong một ngày, nên chúng có thể phá hoại gây ra những thiệt hại lớn hàng năm như: chập cháy điện, sụt nền móng, nứt nở tường, phá hủy mục rỗng nhiều đồ vật trang trí bằng gỗ có giá trị, phân hủy tài liệu quan trọng, mục nát quần áo,...
Cho đến bây giờ khó có thể tìm được những tài liệu nghiên cứu về phân loại mối hoặc những tác hại của mối trong các thư tịch cổ xưa nhất ở nước ta. Vào đầu thế kỷ 20 Holmgren 1922 đã mô tả các loài mối và tiếp đó là Bathellier 1927 đã có công trình nghiên cứu về hệ thống phân loại, sinh học về mối ở Đông Dương, trong tài liệu này có 19 loài mối đã được nghi nhận phân bố ở Đông Dương, trong đó có 17 loài phân bố ở Việt Nam. Sau 1945, qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nghiên cứu về mối tạm thời bị gián đoạn.
Hòa bình lập lại năm 1954 đất nước vẫn 2 miền chia cắt, việc nghiên cứu về mối vẫn 2 miền riêng lẽ.
Ở Bắc Việt Nam những nghiên cứu về mối được bắt đầu từ năm 1962 và sau đó, những kết quả nghiên cứu về thành phần, phân bố và sinh học về mối đã được công bố, đáng chú ý là công trình "Mối (côn trùng bộ Isoptera) ở miền Bắc Việt Nam" (Luận văn Khoa học Nguyễn Đức Khảm) với một nội dung cơ bản của luận văn này tác giả đã tu chỉnh và xuất bản thành tập sách "Mối ở miền Bắc Vệt Nam 1976".
Trong tác phẩm này có 4 họ mối (Kalotermitidae, Termopsidae, Rhinotermitidae và Termitidae), 20 giống gồm 61 loài mối thuộc bộ cánh bằng (Isoptera) đã được nghi nhận ở Bắc Việt Nam. Gần 13 năm sau cũng chính tác giả đã thông báo bổ sung về tên các loài mối được phát hiện ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong tài liệu "Danh sách những loài mối ở Việt Nam đã được tu chỉnh và bổ sung", chính tác giả đã bổ sung thêm 3 giống gồm 21 loài, đưa tổng số mối được phát hiện ở Việt Nam đến năm 1989 là 23 giống gồm 82 loài mối thuộc bộ cánh bằng ((Isoptera) ( Nguyễn Đức Khảm 1989). Tiếp theo đó khi nghiên cứu về một loài mối hại đê đập Vũ Văn Tuyển (1982) đã bổ sung thêm một số loài mối hại đê.
Ở Nam Việt Nam; Theo tài liệu của Lâm Bình Lợi, y Durand (1971) thì ở Việt Nam có 3 họ (Kalotermitidae, Rhinotermitidae và Termitidae không có họ Termopsidae), 18 giống gồm 37 loài được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó Kalotermitidae có 1 giống gồm 1 loài, Rhinotermitidae có 3 giống gồm 7 loài và Termitidae có 14 giống gồm 29 loài. Gần đây trong công trình "Mối Macrotermes (Termitidae, Isoptera) ở Việt Nam và biện pháp phòng trừ (Luận văn Khoa học 1997" của Nguyễn Tân Vương) tài liệu này đưa ra 14 loài mối thuộc giống Macrotermes được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó có 4 loài mới có khu hệ và 3 loài mới cho kha học. Như vậy ở Việt Nam có 18 giống gồm 44 loài thuộc Isoptera được phát hiện từ Đèo Ngang trở vào (Lâm Bình Lợi 1971 và Nguyễn Tân Vương 1997).
Nhìn lại phương pháp phòng trừ mối ở các nước lân cận gần đây cho thấy rằng "Phương pháp phòng trị mối" của Lý Thủy Mỹ được xuất bản bằng tiếng Trung Quốc năm 1958, và được Xuân Chỉ dịch ra tiếng Việt năm 1961 là một tài liệu được chú ý nhiều. Đối với cách diệt mối trong công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, thì Lý Thủy Mỹ chú ý đặc biệt đến cách tìm tổ và phun thuốc vào tổ trực tiếp để diệt mối, nhưng theo cách tìm tổ bằng kinh nghiệm, với những dụng cụ thô sơ như đèn pin và tuốc nơ vít thì chỉ tìm được những tổ mối nằm lộ trên mặt đất, còn những tổ ở sâu trong lòng đất thì thật khó tìm.
Những tổ mối mà tác giả nêu ra khi tìm được rồi phun thuốc vào để diệt chúng thực ra đó là những "tụ điểm" này mối đã tìm ra được thức ăn mà mối rất thích, nên mối đến rất đông, mà không phải là "tổ mối đích thực" vì tác giả không chứng minh được cái gọi là "tổ mối" được phát hiện đó là tổ chính hay tổ phụ và trong đó có mối vua hay mối chúa hay không? Vì lẽ đó phương pháp này có thể thành công trong khi tìm được "tụ điểm" của tổ mối, tức là nơi tập trung cá thể mối nhiều >15-20% tổng số cá thể trong trong tổ mối, thì sau khi phun thuốc có số lượng lớn cá thể mối (15-20%) bị lây nhiễm dẫn đến chết thối rữa đủ để làm mất cân bằng sinh thái trong tổ mối, làm cho cả tổ mối bị diệt. Và ngược lại nếu không tìm được tụ diểm của tổ mối (không phải là tổ mối đích thực vì trong đó hiện không có mối vua, mối chúa), thì số cá thể bị nhiễm thuốc quá ít (<10%) trong tổng số cá thể một tổ mối, thì khả năng phục hồi của tổ mối có thể diễn ra.
Trong tập sách năm 1958 của Lý Thủy Mỹ mới chỉ đề cập đến tìm tổ và phun thuốc diệt mối trong các công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, mà chưa nói đến nhử và diệt, do vậy cũng chưa chủ động để nhử một số lượng mối đủ lớn (15-20%) để khi phun thuốc làm cho mối lây nhiễm dẫn đến mất cân bằng sinh thái trong tổ mối làm cả tổ bị diệt.
Đối với cách diệt mối cho cây rừng và cây công nghiệp thì Lý Thủy Mỹ (1958) đã dùng phương pháp "dụ mối để diệt". Bằng cách đào hố nhử với kích thước rộng 2,5 thước, dài 3 thước, sâu 2 thước (Trung Quốc) rồi để những mồi mà chúng thích ăn, khi kiểm tra có mối ăn nhiều thì phun thuốc diệt chúng.
Cả 2 phương pháp trên có những ưu điểm là trong một số trường hợp đã diệt được mối, làm cho tổ mối không phục hồi được, nhưng chưa chủ động hoàn toàn, nhất là đối với công trình xây dựng, nhưng qua đó đã có những gợi ý hay cho những người nghiên cứu diệt mối sau này.
Khoảng 7 năm sau, tập sách của Thái Bang Hoa (1964: Trung Quốc kinh tế côn trùng chí, tập 8, Bạch Nghị) đã đưa ra phương pháp phun thuốc diệt tổ mối. Nội dung của phương pháp này là: Đem thuốc hữu hiệu phun trực tiếp vào trong tổ mối, có thể trong thời gian ngắn làm cho toàn bộ quần thể mối bị diệt tương đối triệt để, nhất là trong tổ mối to, sống tập trung như mối nhà (Coptotermes) thì hiệu quả càng rõ ràng, đó cũng là một phương pháp phòng trị mối được ứng dụng rộng rãi.
Phương pháp này được ứng dụng bằng 2 cách như sau:
1) Tìm tổ mối
2) Phun thuốc mối
Về cơ bản của phương pháp phun thuốc diệt mối được tác giả đưa ra hầu như không khác phương pháp của Lý Thủy Mỹ đã nêu ra ở trên là cùng tìm tổ và phun thuốc, nếu có khác là ở chỗ Thái Bang Hoa đã chọn lời khuyên rằng; Phương pháp tìm tổ phun thuốc thường áp dụng có hiệu quả để diệt mối nhà Coptotermes (Rhinotermitidae) nhưng áp dụng ít hiệu quả để diệt đối với các loài mối đất (Termitidae).
Những điều nghi nhận ở trên đây cho thấy rằng về phương pháp phòng trị mối nhà (Coptotermes) ở một số nước lân cận cho đến năm 1964 còn đang dừng lại ở phương pháp tìm tổ và phun thuốc để diệt, nhưng những phương pháp đã được nêu ra ở trên là những gợi ý đúng cho hướng đi sau này khi nghiên cứu diệt mối theo phương pháp lây nhiễm.
Ở nước ta, sau ngày giải phóng miền Bắc năm 1954, nhưng thực chất mãi tới năm 1961, sau khi thành lập Viện nghiên cứu Lâm Nghiệp, nay là Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam, thì công tác nghiên cứu phòng trừ mối mới được tiến hành do đòi hỏi cấp bách của sản xuất và đời sống lúc đó.
Trong quá trình nghiên cứu về bảo quản lâm sản nói chung và phòng trị mối nói riêng, những người nghiên cứu phòng trừ mối đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước kia và đã tìm hướng đi đúng.
Từ những nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất, tác giả Nguyễn Thế Viễn trong bài viết về (Phòng trừ mối trong xây dựng, Tập san Lâm Nghiệp (TSLN) Số 2 và 5 năm 1964) đã đưa ra nhận xét về đặc tính sinh vật học của mối và nghi nhận rằng ở Bắc Việt Nam có hai nhóm mối gây hại gỗ xây dựng là: Mối gỗ khô và mối đất (mối hại cây trồng, hại đê đập, hại đường sắt thuộc lĩnh vực khác), có lẽ danh từ mối gỗ khô, mối đất có tên gọi từ đó. Trong tài liệu này tác giả đã đưa ra cách diệt mối nên làm bẫy để nhử mối: đào 1 hố dài 100cm ngang 50cm, sâu 40cm, cho mồi nhử mối vào đó và tưới nước cho ẩm, đậy nắp lại, khi mối vào nhiều dùng thuốc SiF6NA2, DDT để phun diệt mối. Tác giả Nguyễn Thế Viễn là một trong những người đầu tiên đưa ra phương pháp dùng hố nhử để bẫy mối và diệt chúng trong các công trình xây dưng ở nước ta.
Cũng trong thời gian này, khi nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của mối và biện pháp phòng trừ mối cho công trình xây dựng (Tập san xây dựng (TSXD) số 3,5 và 8 năm 1964) tác giả Nguyễn Xuân Khu đã đưa ra phương pháp phòng chống mối cho công trình xây dựng bằng cách xây dựng một hệ thống cách ly mối, để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Với phương pháp này người ta tạo ra xung quanh công trình xây dựng một hệ thống hàng rào bằng các hố nhử mối với kích thước của hố nhử là: 40-50cm (rộng); 50-60cm (dài); 40-50cm (sâu), hàng rào hố nhử này cách nền móng từ 5 - 10m, trong hố nhử đặt mồi nhử mối, và có nắp đạy ở trên. Khi kiểm tra có nhiều mối trong hố nhử thì dùng thuốc bột, thuốc nước hoặc hun hơi xử lý diệt mối để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Đối với những phương pháp diệt và phòng mối đã kể trên tuy chưa hoàn chỉnh vì chưa chủ động nhử mối để diệt ở bất cứ nơi nào trong công trình xây dựng cũng như đã hạn chế sự phá hại của mối trong công trình xây dựng một cách tích cực.
Sau đó không lâu, công trình", năm 1971 của Nguyễn Chí Thanh đã được công bố. Thông qua những kết quả nghiên cứu có trong tập sách này cho thấy tác giả đã đi sâu nghiên cứu theo định hướng diệt mối theo phương pháp lây truyền và qua đó lý giải có tính thuyết phục về quá trình mối chết sau khi bị lây nhiễm bởi thuốc bột TM-67. Không dừng lại ở đó, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tính ổn định những nhân tố sinh thái (nhiệt độ, độ ẩm) trong một tổ mối trước khi phun thuốc và sự mất ổn định những nhân tố sinh thái trong tổ mối đó sau khi phun thuốc diệt mối dẫn đến cả tổ mối bị diệt mà không cần tìm tổ, không cần đào bới. Những kết quả nghiên cứu đó đã làm phong phú thêm về đặc tính sinh học và sinh thái học của giống mối nhà Coptotermes. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bổ sung về giống mối nhà, tác giả đã chỉnh lý để xây dựng Luận văn Phó tiến sĩ và bảo vệ thành công năm 1996.
Trong quá trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Chí Thanh đã cải tiến cách nhử mối, từ hố nhử mối được thay thế bằng hộp nhử mối (hộp bằng các tông, bên trong đựng mồi nhử mối) mà các tác giả trước đó khi nghiên cứu về mối đã chưa đề cập đến. Trước kia muốn nhử mối phải đào hố nhử mối, và như vậy chỉ có thể áp dụng một cách thuận lợi đối với nhà nền đất, còn đào hố nhử mối ở những nhà có nền nhà bằng xi măng hoặc đá hoa, nhà cao tầng, biệt thự, mái nhà lợp ngói thì khó thực hiện vì sẽ ảnh hưởng đến độ bền vững và vẻ đẹp vốn có của công trình. Còn đối với hộp nhử mối thì nó sẽ khắc phục được những nhược điểm trên, vì hộp nhử mối có thể đặt hoặc buộc chặt vào bất cứ nơi nào có mối qua lại để nhử và diệt chúng trong các công trình xây dựng.
Những cải tiến từ hố nhử bằng thùng nhử và sau cùng là hộp nhử mối có ý nghĩa thực tiễn nhiều, vì có được hộp nhử mối con người sẽ chủ động dụ được nhiều mối từ tổ mối để diệt chúng một cách triệt để (ở đây chỉ mối nhà Coptotermes).
Tuy vậy không phải trường hợp nào cũng áp dụng phương pháp diệt lây truyền cũng thành công cả. Trong cuốn sách "Mối ở miền Bắc Việt Nam 1976" của Nguyễn Đức Khảm, tác giả nghi nhận rằng "Sau khi công trình nghiên cứu của Lý Thủy Mỹ ra đời một thời gian thì thành tựu đó cũng được áp dụng vào miền Bắc nước ta, song kết quả thì không được là bao và thường mối không bị diệt trong toàn tổ" (tài liệu dẫn trang 182-1976).
Mười năm sau, qua những nghiên cứu và thực nghiệm về diệt mối, Nguyễn Đức Khảm và Vũ Văn Tuyển (1985) và không xa với những kết quả nghiên cứu đã được công bố ở trong nước về "Diệt mối theo phương pháp lây truyền" của Nguyễn Chí Thanh (1971). Tác giả Nguyễn Đức Khảm (1985) đã nghi nhận "Trong một số trương hợp nhất là khi không có cách truy tìm được tổ chính hoặc khi thăm dò tổ chính gặp khó khăn do một nguyên nhân nào đó, thì việc sử dụng biện pháp lây nhiễm một cách đúng quy trình và có thể là việc cần thiết, và thuốc bột acsenic là loại thuốc được dùng để diệt mối bằng phương pháp lây nhiễm tốt nhất hiện nay, nhưng các hợp chất này là những chất có chứa độc tố cho mối chết, nên khi sử dụng thuốc phải theo đúng quy trình và quy định bảo hộ lao động.
Ở Việt Nam ngoài những công trình nghiên cứu về diệt mối theo phương pháp lây truyền, còn có những kết quả về "phòng mọt, mục cho gỗ" "chọn các loại gỗ có sức đề kháng với tự nhiên đối với mối", "tìm tổ để diệt, cách ly cơ giới đối với mối, phòng mối có trọng điểm", "xử lý chân tường để phòng mối", "phương pháp phóng xạ", "phương pháp thăm dò điện để tìm tổ mối và diệt chúng", "Bơm nước và thuốc sát trùng vào tổ mối để diệt chúng".
Mối là loài côn trùng đa hình thái, mỗi một tổ tự hình thành một quần thể. Từ một đôi mối ban đầu (bố, mẹ) thường được gọi là mối vau, mối chúa, chúng bắt đầu sinh sản, không ngừng đẻ trứng, trứng nở ra mối non, từ mối non bắt đầu phân thành hai loại hình lớn: loại hình sinh sản và loại hình không sinh sản. từ hai loại này lại phân ra nhiều đẳng cấp.
- Loại hình không sinh sản gồm có mối lính, mối thợ.
- Ở một số loài cùng là mối lính lại có mối lính lớn và mối lính nhỏ, mối thợ lớn và mối thợ nhỏ (Mactotermes barneyi Light). Do hiện tượng đa hình thái đó mà việc định loại mối có lúc gặp những khó khăn.
Cũng như những côn trùng khác, cơ thể mối chia ra làm 3 phần là đầu, ngực và bụng, đầu có thể chuyển động và mang bộ phận miệng, mắt, râu đầu và còn mang thêm hai đôi cánh. Bụng có 10 đốt. Lỗ sinh dục con đực ở giữa mảnh bụng đốt thứ 9 và đốt thứ 10, còn lỗ sinh dục con cái nằm ở mặt bụng đốt thứ 7. Mức độ ky tin hóa của đầu và cơ thể mối không giống nhau.
Nói chung là mối cánh trưởng thành hơi rắn hơn so với mối lính và mối thợ. Cơ thể mối và các chi phụ có lông nhỏ. Thân mối có màu sắc từ trắng đến vàng, nâu cho đến đen, phần lớn là màu nhạt.
Chiều dài của mối lính và mối thợ từ vài mm đến mười mấy mm. Chiều dài mối cánh trưởng thành từ 10mm đến 30mm. Còn đối với mối chúa trưởng thành đã sinh đẻ nhiều, bộ phận bụng phình to, cơ thể có thể đạt từ 60 - 70mm. Hình thái bên ngoài mối thợ và mối non gần giônhs nhau, nhưng mối non toàn thân gần như màu trắng sữa kể cả miệng, còn đối với mối thợ thì màu thẫm hơn, đặc biệt là đôi hàm trên có màu nâu hoặc màu nâu đen đã được ky tin hóa cao nên rất chắc chắn. Cơ thể mối gồm 3 bộ phận được mô tả sơ lược như sau:
1. Đầu là phần phụ của đầu
Đầu thường có hình tròn, hình trứng hoặc hình chữ nhật. Sự biến hóa hình thái cũng rõ ràng hơn, đầu mối thợ và mối sinh sản phần lớn là tròn và hình trứng. Mặt lưng của đầu về phía trước thường có một đường ngấn dọc và một đường ngấn ngang hợp với nhau thành hình chữ T hoặc chữ Y, có đôi khi không rõ ràng. Đối với mối nhà Coptotermes đường ngấn này là chỗ thóp ở mối lính, thóp này tiết ra một dịch thể như sữa mang tính axít đặc quánh.
Đầu của mối cánh trưởng thành có một đôi mắt kép hình tròn hoặc hình gần tròn đính ở hai bên đầu, phía trước mắt kép về phía lưng mỗi bên thường có một mắt đơn trong xuốt không màu, một số ít loài không có mắt đơn.
Mắt kép của mối sinh sản bổ sung cánh ngắn tương đối nhỏ, còn đối với mối không sinh sản thì không có mắt hoặc đối với mối có đẳng cấp thấp tì phía sau râu đầu có mắt phát triển yếu ớt, ở cuối phía trước hai bên đầu có một đôi râu đầu, phần lớn các đốt râu có hình tròn hoặc viên chùy, cá biệt có đốt dài. Râu đầu có 9 - 30 đốt hình chuỗi hạt, Trong cùng một loài thì số đốt râu đầu của mối cánh trưởng thành là nhiều so với mối thợ và mối lính.
2. Miệng và phần phụ của miệng
Miệng ở cuối phần trước của đầu gồm có môi trên, hai hàm trên, hai hàm dưới và xúc biện hàm dưới, môi dưới và xúc biện môi, lưỡi (Hypophanynx).
3. Ngực và phần phụ của ngực
Ngực gồm có 3 đốt: Ngực trước, ngực giữa và ngực sau, mỗi đốt do những tấm ky tin hóa được sắp sếp theo vị trí thích hợp gọi là tấm lưng, tấm bên, tấm bụng, nhờ có chất màng liên kết các đốt ngực lại với nhau. Mỗi đốt ngực mang một đôi chân. Đối với mối cánh trưởng thành thì ở tấm lưng ngực giữa và ngực sau, mang một đôi cánh ở mỗi đốt.
Cánh được tạo thành bởi chất màng có hình dạng hẹp và dài, khi không bay thì 4 cánh xếp trên lưng và hướng về phía sau và dài vượt quá phần cuối của bụng.
Cánh trước hơi dài hơn cánh sau. Sự phân bố gân cánh trước và cánh sau cũng không hoàn toàn giống nhau. Với mối ở đẳng cấp thấp thì sự khác biệt này lớn còn với mối ở đẳng cấp cao thì sự khác biệt này ko nhiều . Sau khi bay lượn giao hoan cánh của mối cánh trưởng thành bị dứt rời ra từ khớp gẫy của cánh. Bốn cánh bị rơi ra , phần gốc cánh còn giữ lại được có dạng gần như hình tam giác gọi là vảy cánh . Kích thước to nhỏ và hình dạng của vảy cánh biển đổi khác nhau tùy theo loài . Sự biến hóa của gân cánh có những thay đổi lớn , nói chung theo quy luật , cánh của mối ở đẳng cấp thấp thì phức tạp , còn cánh mối ở đăng cấp cao thì đơn giản (H. 60). Gân (mạch) cánh ở mối cánh trưởng thành thuộc họ Kalotermitidae có thể nhìn thấy được gân mép trước (c), gân phụ mép trước (sc), gân đường kính (r), gân giữa (m), gân khuỷu (cu), gân phân kính (rs).
4. Chân
Mặt bụng của mỗi đốt ngực sinh ra một đôi chân, chân theo kiểu bò, nói chung là ngắn. Mỗi chân gồm có đốt háng (coxa), chuyển (trochanter), đùi (fermar), chày hay ống (tibia) và bàn tarsus). Đốt háng và đốt chuyển rất ngắn, đốt đùi và đốt chày thường dài, mép bên đốt chày thường sinh ra một hàng gai, cuối đốt chày có 2- 3cái gai cứng bàn chân bao gồm mấy đôts nhỏ , đối với họ mối Mastotermitidae bàn chân là 5 đốt còn bàn chân họ mối Termopsidae thì sợ phâ chia đốt không hoàn chỉnh , do vậy từ mặt dưới nhìn thấy 5 đốt , nhưng nhìn mặt lưng chỉ có thể thấy 4 đốt , đốt bàn chân của mấy họ mối còn lại đều là 4 đốt , ở cuối của đốt bàn chân sinh ra một đối vuốt cong.
5. Bụng
Bụng mối có dạng hình trụ hoặc hình quả mướp , do 10 đốt tạo thành , mỗi đốt có 1 tấm lưng , tấm bụng của đốt thứ nhất của mặt bụng thường thái hóa thành một phiến nhỏ , từ đốt thứ 2 trở về sau , mỗi đốt đều có tấm bụng rõ ràng đối với con đực của mối cánh trưởng thành thì hình dạng của tấm bụng đốt thứ 2 đến đốt thứ 9 là có độ lớn giống nhau , đốt thứ 10 phân ra làm 2 lỗ sinh dục ở giữa tấm bụng đốt thứ 9 và 10 . Còn con cái mối cánh trưởng thành thì độ dài của tấm bụng thứ 7 thường lớn hơn các đốt khác còn lại . Trên mép các tấm lưng có nhiều lông . Phần cuối bụng có đối lông đuôi (cerci) và một đôi châm đuôi (styli).
Có nhiều tên gọi khác nhau: Diệt mối theo phương pháp lây truyền (1971), diệt mối theo phương pháp hóa sinh hay diệt mối tận gốc (1994), phương pháp diệt và phòng mối không phải tìm tổ trong công trình nhà cửa đã xây dựng (1996), của Nguyễn Chí Thanh. Trừ mối gỗ ẩm bằng phương pháp diệt lây truyền - Quy phạm Nhà nước QPVN16 - 79 (1982). Phương pháp diệt mối bằng cách lây nhiễm chất độc hóa học của Lý Thủy Mỹ (1958), Nguyễn Đức Khảm (1976), Phương pháp diệt mối lan truyền (Nguyễn Ngọc Kiểng (1987). Tuy tên gọi khác nhau nhưng đều có nội dung là "diệt mối theo phương pháp lây truyền".
Cũng cần nói rõ rằng "diệt mối theo phương pháp lây truyền" không phải áp dụng để diệt tất cả các loài mối phân bố ở Việt Nam, mà đối với mỗi nhóm mối (giống mối) có đặc tính sinh vật học giống nhau thì áp dụng một phương pháp thích hợp để diệt chúng.
Ví dụ: Đối với giống mối nhà (Coptotermes) thì áp dụng "diệt mối theo phương pháp lây truyền" vì căn cứ vào những kết quả sau đây: Tần số xuất hiện của giống mối nhà trong các công trình xây dựng là 97% (Nguyễn Chí Thanh 1996), còn các giống khác chỉ chiếm 4 - 5%.
Những bước tiến hành "diệt mối theo phương pháp lây truyền".
- Điều tra khảo sát và phân loại mối
- Đặt hộp nhử mối
- Phun thuốc
- Nghiệm thu và kiểm tra đánh giá kết quả
- Bước 1: Điều tra khảo sát mối
Điều tra khảo sát để phát hiện những nơi đang có mối hoạt động và phân loại mối thuộc nhóm mối nào để có phương pháp phòng trừ thích hợp, nếu không phân loại được thì gửi về cơ quan có chuyên môn sâu về lĩnh vực này giúp đỡ để phân loại mối chính xác, đưa ra phương án xử lý phù hợp và kết quả diệt mối đạt chất lượng cao nhất.
- Bước 2: Đặt hộp nhử mối
Đặt hộp nhử mối vào các vị trí mối đang hoạt động.
- Bước 3: Khi mối tập trung vào các hộp nhử nhiều, phun thuốc diệt mối vào các hộp nhử mối. Sau đó, thả cho mối lính, mối thợ chạy về tổ, đem thuốc về lây bệnh cho toàn bộ hệ thống tổ dưới lòng đất nhằm tiêu diệt mối vua và mối chúa (con duy nhất có khả năng sinh sản).
- Bước 4: Thu dọn, tiêu hủy hộp nhử.
- Bước 5: Kiểm tra kết quả diệt mối, nghiệm thu và thanh lý hợp đồng.
Xem thêm:
Nếu sau thời gian trên mà còn thấy mối đi lại ở đường mui cũ thì việc diệt mối chưa có kết quả do những nguyên nhân sau đây.
+ Mồi nhử mối không thích hợp (không ngon) nên mối không đến ăn hoặc đến ăn quá ít, mục đích diệt mối ra để nhử không đạt.
+ Định loại mối không chính xác.
+ Khi phát hiện mối đất, lại nhầm tưởng là mối nhà "diệt mối theo phương pháp lây truyền" sẽ mang lại hiệu quả ít.
+ Phun thuốc không đều, mối nhiễm thuốc ít, không đủ số lượng mối nhiễm thuốc để làm mất cân bằng sinh thái trong tổ mối.
+ Đặt hộp nhử không đúng nơi mối đang đi lại.
Kết quả nghiên cứu cho thấy "diệt mối theo phương pháp lây nhiễm chất độc hóa học" đã được ứng dụng trong sản xuất nhiều năm nay để diệt mối nhà (Coptotermes) có trong hàng ngàn công trình xây dựng nhà tạm, nhà cấp bốn, nhà tầng, cơ quan, công ty, chung cư cao tầng và các viện bảo tàng...
Có rất nhiều loại bả diệt mối, có tác dụng khác nhau đối với các loài mối khác nhau. Kiểm tra sản phẩm bả phải nghi rõ tên hoạt chất diệt mối và được cấp giấy phép sử dụng của cơ quan quản lý nhà nước.
Tùy theo từng loại bả, đặc điểm đối tượng xử lý và môi trường mối hoạt động ,phương thức xử dụng bả khác nhau, nhưng nhìn chung cũng có các bước căn bản sau đây:
Bước 1: Đặt bả
Ta tiến hành khảo sát vị trí mối, thành phần loài mối, đặc điểm tác hại, số lượng các điểm cần đặt bả, cách thức đặt bả và lượng bả cần thiết cho mỗi điểm đặt. Các điểm đặt bả phải được đảm bảo ổn định không bị di chuyển hoặc bị nhiễu động trong xuốt quá trình diệt mối.
Bước 2: Theo dõi tình hình bả sau khi đặt
Theo chu kỳ nhất định khoảng 10 ngày đến 15 ngày hoặc lâu hơn, kiểm tra lại các vị trí đặt bả để biết mối đã vào ăn bả chưa, tốc độ tiêu thụ bả, thời gian đàn mối bị tiêu diệt.
Bước 3: Kết thúc
Khi kiểm tra thấy các vị trí đặt bả đều hết mối thì công tác diệt đàn mối đó kết thúc, có thể thu dọn các hộp bả và tiến hành vệ sinh.
1. Bảo hành diệt mối
Công ty cung cấp dịch vụ diệt mối uy tín, giá rẻ tại Quận 8 sau khi nghiệm thu và thanh lý hợp đồng cho công trình, bên diệt mối và phòng mối phải cam kết bảo hành cho công trình. Trong thời gian bảo hành, bên diệt mối phải xem xét và kiểm tra mối cho công trình. Nếu phát hiện có mối, bên công ty thi công phải xử lý ngay.
2. An toàn lao động và vệ sinh môi trường khi diệt mối
2.1 Người sử dụng thuốc diệt mối và phòng mối phải được qua lớp huấn luyện an toàn lao động.
2.2 Trong khi làm việc người sử dụng thuốc diệt mối và phòng mối phải trang bị bảo hộ lao động (quần áo, găng tay, khẩu trang, ủng, mặt nạ,..) để tránh hít phải thuốc; tránh tiếp xúc với da, mồm, mắt, mũi; không hút thuốc, ăn uống trong khi làm việc.
Trường hợp dính phải thuốc vào người cần thay bảo hộ lao động và rửa sạch vùng bị dính thuốc bằng nhiều nước.
Sau khi sử thuốc phải rửa sạch chân tay hay tắm và rửa, giặt sạch trang bi bảo hộ lao động.
2.3 Không phun thuốc bên trong nhà hay bên trong cơ quan mà phải tháo hộp mối mang ra phía bên ngoài như: cổng, mái nhà xe, ban công, hay vườn để không ảnh hưởng tới sinh hoạt của gia đình, cũng như an toàn tuyệt đối cho trẻ em và bà bầu.
2.4 Nếu thực hiện phun phòng mối bằng bình áp khí thì phải ngắt mạch điện nơi có đường dây điện trần hoặc dây điện bị hỏng lớp bảo vệ.
Trước khi xử lý thuốc có dung môi dầu, phải tắt nguồn lửa, cắt nguồn điện ở khu vực phun để tránh cháy nổ.
2.5 Trước khi khoan lỗ để thực hiện các phần việc: lập hàng rào phòng mối ngầm trong và ngoài công trình, xử lý phần tường tiếp giáp với các khuân cửa gỗ, xử lý nền tầng 1, xử lý các kết cấu gỗ và vật chứa xen-lu-lô. Cần phải hiểu biết đầy đủ sơ đồ mạng lưới hệ thống (điện, cấp và thoát nước, điện thoại, viễn thông, cáp kỹ thuật khác,..) để tránh khoan vào những chỗ đó gây nguy hiểm tính mạng và làm hỏng các hệ thống này.
2.6 Người sử dụng thuốc diệt mối và phòng mối phải tuân theo hướng dẫn sử dụng, bảo quản,...như đã nghi trên bao bì và nhãn thuốc.
2.7 Kho đảm bảo thuốc diệt và phòng mối phải đảm bảo các yêu cầu sau (theo quyết định số 145/2002 QDD-BNN ngày 18/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn:
- Địa điểm kho bảo quản thuốc (ngoài khu công nghiệp) phải được chấp thuận bằng văn bản của chính quyền địa phương có thẩm quyền;
- Kho phải được xây dựng vững chắc, bằng vật liệu khó cháy, không bị úng ngập, đảm bảo thông thoáng, thuận tiện cho các phương tiện chữa cháy hoạt động;
- Kho phải có dụng cụ chữa cháy, phòng độc, cấp cứu và có biển cảnh báo theo quy định của Nhà Nước.
Công ty diệt mối Anh Tuấn ngoài cung cấp dịch vụ diệt mối uy tín, giá rẻ tại Quận 8 chúng tôi còn cung cấp dịch vụ diệt mối tại tất cả các quận, huyện tại thành phố Hồ Chí Minh bao gồm: Diệt mối tại thành phố Thủ Đức, diệt mối tại Quận 1, diệt mối tại Quận 3, diệt mối tại Quận 4, diệt mối tại Quận 5, diệt mối tại Quận 6, diệt mối tại Quận 7, diệt mối tại Quận 10, diệt mối tại Quận 11, diệt mối tại Quận 12, diệt mối tại quận Tân Phú, diệt mối tại quận Bình Tân, diệt mối tại quận Tân Bình, diệt mối tại quận Gò Vấp, diệt mối tại quận Phú Nhuận, diệt mối tại huyện Bình Thạnh, diệt mối tại huyện Bình Chánh, diệt mối tại huyện Cần Giờ, diệt mối tại huyện Củ Chi, diệt mối tại huyện Nhà Bè, diệt mối tại huyện Hóc Môn.
Một số bài viết được nhiều khách hàng quan tâm:
Mối có lây từ nhà này sang nhà khác không?
Diệt mối trong bao nhiêu ngày?
Diệt mối có ảnh hưởng tới sức khỏe không?
Cần phải làm gì khi phát hiện mối?
====================================================
Mọi thông tin chi tiết xin liên hệ
Công Ty TNHH Kinh Doanh Dịch Vụ Diệt Mối Anh Tuấn
Địa chỉ: Số 160 An Dương Vương - Phường 16 - Quận 8 - TpHCM
Điện thoại (Zalo): 0979 48 48 55
Email: tranvankhang201981@gmail.com
Website: www.dietmoianhtuan.com