Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ diệt mối Anh Tuấn chuyên diệt mối tận gốc, phòng mối, diệt côn trùng, phun khử khuẩn cho nhà ở, cơ quan hành chính, khách sạn, bệnh viện, khu di tích, công ty, trường học, kho tàng, chung cư, kho hàng hóa, cây trồng, đê điều...Với đội ngũ kỹ thuật viên chuyên nghiệp, có trên 18 năm kinh nghiệm, hiểu biết sâu rộng về loài mối sẽ có mặt nhanh chóng sau khi tiếp nhận thông tin của khách hàng.
Mối là loài côn trùng xã hội, chúng sống thành từng tập đoàn với số lượng hàng triệu cá thể. Mối có khả năng đục xuyên vữa tường (nhờ chất axít có trong miệng với gốc bazơ có trong vữa tường) lên mối có thể di chuyển từ dưới lòng đất lên những độ cao lớn của các tòa chung cư cao tầng, cùng với khả năng hoạt động ngày đêm không nghừng nghỉ và khả năng sinh sản vô hạn lên tới 36.000 trứng trong một ngày, nên chúng có thể phá hoại gây ra những thiệt hại lớn hàng năm như: chập cháy điện, sụt nền móng, nứt nở tường, phá hủy mục rỗng nhiều đồ vật trang trí bằng gỗ có giá trị, phân hủy tài liệu quan trọng, mục nát quần áo,...
Công ty diệt mối Anh Tuấn cung cấp dịch vụ diệt mối tận gốc tại tất cả các quận huyện tại Hà Nội như: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai, Thanh Xuân, Long Biên, Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Cầu Giấy, Hà Đông, Thị xã Sơn Tây, huyện Ba Vì, Chương Mỹ, Phúc Thọ, Đan Phượng, Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Mê Linh, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Quốc Oai, Sóc Sơn, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa, Thanh Trì.
Liên hệ diệt mối toàn Quốc qua Hotline: 0979 48 48 55.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có khí hậu nóng ẩm nên nước ta chịu ảnh hưởng rất mạnh của các sinh vật hại, trong đó đặc biệt nguy hiểm là mối. Mối là sinh vật phong phú về loài, đa dạng về tác hại, sinh trưởng nhanh, khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường. Theo điều tra chưa đầy đủ, ở nước ta có khoảng 83 loài mối sinh sống và gây hại, trong đó đặc biệt nguy hiểm là các loài mối đất thuộc họ Isoptera, mối nhà thuộc họ Rhinoterminidae và mối gỗ thuộc họ Kaloterminitae.
Lưu ý: Khi quý khách phát hiện trong ngôi nhà của mình có mối gây hại, quý khách không nên xịt bất kỳ loại hóa chất hay dung dịch diệt mối nào, không nên tháo dỡ hay di chuyển các vật dụng có mối sang vị trí khác (trừ tài liệu quan trọng) để kỹ thuật viên đến xử lý mối tận gốc đạt hiệu quả cao nhất.
1. Dịch vụ diệt tận gốc các loại mối phá hại nhà cửa, kho tàng, đê điều, khu di tích, cơ quan, công ty như: diệt mối gỗ ẩm (mối nhà), diệt mối đất, diệt mối gỗ khô, diệt mối cánh, diệt mọt gỗ.
2. Diệt mối xông khuân cửa, cầu thang, tủ bếp, ổ điện, trần gỗ, sàn gỗ, ốp chân tường gỗ, tủ tài liệu, két sắt, tủ quần áo, kho hàng...
3. Tư vấn, thiết kế, thi công xử lý phòng chống mối, mọt ngay từ nền móng cho các công trình bắt đầu xây dựng mới.
4. Dịch vụ diệt mối, muỗi, kiến, gián, chuột...bằng các hóa chất thế hệ mới (chỉ phun một lần duy nhất nhưng có tác dụng diệt trừ và xua đuổi côn trùng trong thời gian từ 4 - 6 tháng, thuốc không mùi, không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường).
5. Khử trùng các kho tài liệu, kho hàng hóa...bị côn trùng gây hại tấn công.
6. Kinh doanh các loại thuốc phòng chống mối, mọt, các loại thuốc bảo quản gỗ, thuốc diệt côn trùng: muỗi, kiến, gián...
7. Cung cấp hộp nhử mối chất lương cao, dễ nhử mối, mồi ngon trên toàn Quốc.
Cơ sở diệt mối tận gốc:
Cơ Sở 1 - Diệt Mối Tại Số 9 Ngõ 181 - Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà Nội
Cơ Sở 2 - Diệt Mối Tại Số 4 - Nguyễn Tuân - Thanh Xuân - Hà Nội
Cơ Sở 3 - Diệt Mối Tại Số 13 Ngõ 592 Trường Trinh - Đống Đa - Hà Nội
Cơ Sở 4 - Diệt Mối Tại Số 33 Phú Viên - Bồ Đề - Long Biên - Hà Nội
Cơ Sở 5 - Diệt Mối Tại Số 146 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
Cơ Sở 6 - Diệt Mối Tại Số 690 lạc Long Quân - Tây Hồ - Hà Nội
Cơ Sở 7 - Diệt Mối Tại Số 214 Quang Trung - Hà Đông - Hà Nội
Cơ Sở 8 - Diệt Mối Tại Số 31 Tây Mỗ, P. Tây Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội
Cơ Sở 9 - Diệt Mối Tại Số 35 Cầu Diễn - Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Cơ Sở 10 - Diệt Mối Tại Số 36 Lĩnh Nam, P. Mai Động, Q. Hoàng Mai, TP. Hà Nội
Cơ Sở 11 - Diệt Mối Tại Số 230 - Viên Nội - Vân Nội - Đông Anh - Hà Nội
Để diệt mối và phòng chống mối hiệu quả trong các công trình xây dựng, nhà của, kho tàng thì việc đầu tiên là điều tra khảo sát để phát hiện mối trong các công trình, để từ đó đưa ra phương pháp diệt mối và phòng mối một cách hợp lý. Trong công trình có thể phát hiện một giống, nhưng cũng có thể phát hiện ra nhiều giống mối trong cùng một thời điểm điều tra. Theo kết quả điều tra mối ở Việt Nam thì mối phá hoại nghiêm trọng đối với các công trình xây dựng và nhà cửa.
Khác với côn trùng cánh cứng, mối thuộc bộ cánh đều (cánh bằng) Isoptera, mối có biến thái không hoàn toàn, chỉ có 3 giai đoạn biến thái là trứng, ấu trùng và mối trưởng thành. Mối là côn trùng có tổ chức xã hội và đàn mối trưởng thành có những đẳng cấp: Mối vua, mối chúa, mối lính, mối hậu bị...mỗi đẳng cấp có chức năng khác nhau.
Nếu căn cứ vào thức ăn, phương thức lấy thức ăn, nơi ở của mối,...thì có thể chia mối phá hoại công trình xây dựng ra làm ba nhóm, để thuận tiện cho việc diệt mối và phòng mối.
1. Mối gỗ ẩm (còn gọi là mối nhà)
Đại diện cho nhóm này là giống Coptotermes thuộc họ Rhinotermitidae. Tổ mối các loài này thường sống ở dưới mặt đất, có khi ở trong các tấm panen, tổ mối có liên hệ với nguồn nước và đất, không có vườn nấm, mối tiêu hóa gỗ trực tiếp với sự hỗ trợ của vi sinh vật trong ruột mối. Để phát hiện giống mối này, nhờ những đường mui của chúng đắp trên mặt tường hoặc đường đất đùn ra từ kẽ nứt, khuyết tật của gỗ, quan sát thấy đường mui màu thẫm, ẩm thường có mối bên trong đi lại, nếu đường mối khô, hoặc bong ra thì ít khi phát hiện có mối bên trong. Cũng có thể dùng búa, tuốc-nô-vít gõ vào gỗ phát hiện ra tiếng kêu bục bục sẽ dự đoán có mối.
2. Mối gỗ khô
Trong nhóm này điển hình là giống mối gỗ khô (Crytotermes) thuộc họ Kalotermitidae hại gỗ nghiêm trọng. Giống mối gỗ khô làm tổ trong gỗ đã khô và lấy thức ăn trong tổ mà nó sống, tổ mối không có đường mui, không có liên hệ với nguồn nước và đất, trong tổ mối không có vườn nấm và tiêu hóa gỗ trực tiếp nhờ vi sinh vật trong ruột mối. Lỗ vũ hóa là những lỗ tròn đơn giản, bình thường bị bịt kín, khi vũ hóa hoặc lúc tống phân ra ngoài, mối gậm vứt bỏ chất bịt kín ấy đi.
Dựa vào phân mối thải ra của giống mối này mà chúng ta phát hiện ra mối gỗ khô, phân của giống mối này chất lại thành đống cát, từ đỉnh đống cát này chiếu thẳng đứng lên phía trên có cấu kiện gỗ ta sẽ phát hiện ra tổ mối gỗ khô, phân mối là những viên hình tròn, rời nhau như hạt kê, rất dễ phát hiện.
3. Mối đất
Đại diện của phân nhóm này là các giống Odontotermes thuộc họ Termitidae. Các loài trong phân nhóm này thường ăn các loại gỗ đã mục một phần và loại nấm có ở vườn nấm trong tổ mối, đường mui to có khi liên kết với nhau thành mảng lớn, tổ mối có nắp phòng đợi bay, tổ mối của nhóm này có khi nằm chìm sâu trong lòng đất nên rất khó phát hiện, nhưng cũng có khi nổi trên mặt đất hoặc có khi nửa nổi nửa chìm rất dễ phát hiện, trong khi khảo sát chúng ta cần chú ý như sau:
Nếu tổ mối có nắp phòng đợi bay thì tìm và đánh dấu nơi xuất hiện nắp phòng đợi bay, khi cần đào tổ mối này thì từ nắp phòng đợi bay mà đào để tìm đến tổ chính. Chú ý là nắp phòng đợi bay thường xuất hiện vào tháng 2 đến tháng 6, có khi sớm hơn, có khi muộn hơn thùy theo loài và khi hậu từng nơi, cần phải đnahs dấu vì sau cơn mưa nắp phòng đợi bay có thể mất đi.
Khi đã phát hiện được tổ mối thì đào hoặc khoan lỗ, rồi bơn thuốc phòng chống mối hoặc xông hơi để diệt đàn mối.
⇒ Diệt mối là sử dụng phương pháp thích hợp để diệt cho từng loại mối, sau khi phát hiện mối. Dùng thuốc diệt mối để bơm hoặc phun lên cá thể mối, mối dính thuốc sẽ lây lan nhau mà chết và làm mất cân bằng sinh thái trong hệ thống tổ. Một thời gian mối sẽ bị tiêu diệt và làm chết cả đàn mối.
1. Chủng loại mối và phân bố
Cho đến bây giờ khó có thể tìm được những tài liệu nghiên cứu về phân loại mối hoặc những tác hại của mối trong các thư tịch cổ xưa nhất ở nước ta. Vào đầu thế kỷ 20 Holmgren 1922 đã mô tả các loài mối và tiếp đó là Bathellier 1927 đã có công trình nghiên cứu về hệ thống phân loại, sinh học về mối ở Đông Dương, trong tài liệu này có 19 loài mối đã được nghi nhận phân bố ở Đông Dương, trong đó có 17 loài phân bố ở Việt Nam. Sau 1945, qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nghiên cứu về mối tạm thời bị gián đoạn.
Hòa bình lập lại năm 1954 đất nước vẫn 2 miền chia cắt ,việc nghiên cứu về mối vẫn 2 miền riêng lẽ.
Ở Bắc Việt Nam những nghiên cứu về mối được bắt đầu từ năm 1962 và sau đó, những kết quả nghiên cứu về thành phần, phân bố và sinh học về mối đã được công bố, đáng chú ý là công trình "Mối (côn trùng bộ Isoptera) ở miền Bắc Việt Nam" (Luận văn Khoa học Nguyễn Đức Khảm) với một nội dung cơ bản của luận văn này tác giả đã tu chỉnh và xuất bản thành tập sách "Mối ở miền Bắc Vệt Nam 1976".
Trong tác phẩm này có 4 họ mối (Kalotermitidae, Termopsidae, Rhinotermitidae và Termitidae), 20 giống gồm 61 loài mối thuộc bộ cánh bằng (Isoptera) đã được nghi nhận ở Bắc Việt Nam. Gần 13 năm sau cũng chính tác giả đã thông báo bổ sung về tên các loài mối được phát hiện ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong tài liệu "Danh sách những loài mối ở Việt Nam đã được tu chỉnh và bổ sung", chính tác giả đã bổ sung thêm 3 giống gồm 21 loài, đưa tổng số mối được phát hiện ở Việt Nam đến năm 1989 là 23 giống gồm 82 loài mối thuộc bộ cánh bằng ((Isoptera) ( Nguyễn Đức Khảm 1989). Tiếp theo đó khi nghiên cứu về một loài mối hại đê đập Vũ Văn Tuyển (1982) đã bổ sung thêm một số loài mối hại đê.
Ở Nam Việt Nam; Theo tài liệu của Lâm Bình Lợi, Patrick y Durand (1971) thì ở Việt Nam có 3 họ (Kalotermitidae, Rhinotermitidae và Termitidae không có họ Termopsidae), 18 giống gồm 37 loài được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó Kalotermitidae có 1 giống gồm 1 loài, Rhinotermitidae có 3 giống gồm 7 loài và Termitidae có 14 giống gồm 29 loài. Gần đây trong công trình "Mối Macrotermes (Termitidae, Isoptera) ở Việt Nam và biện pháp phòng trừ (Luận văn Khoa học 1997" của Nguyễn Tân Vương ) tài liệu này đưa ra 14 loài mối thuộc giống Macrotermes được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó có 4 loài mới có khu hệ và 3 loài mới cho khoa học .Như vậy ở Việt Nam có 18 giống gồm 44 loài thuộc Isoptera được phát hiện từ Đèo Ngang trở vào (Lâm Bình Lợi 1971 và Nguyễn Tân Vương 1997).
2. Phòng trừ mối
Nhìn lại phương pháp phòng trừ mối ở các nước lân cận gần đây cho thấy rằng "Phương pháp phòng trị mối" của Lý Thủy Mỹ được xuất bản bằng tiếng Trung Quốc năm 1958, và được Xuân Chỉ dịch ra tiếng Việt năm 1961 là một tài liệu được chú ý nhiều. Đối với cách diệt mối trong công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, thì Lý Thủy Mỹ chú ý đặc biệt đến cách tìm tổ và phun thuốc vào tổ trực tiếp để diệt mối, nhưng theo cách tìm tổ bằng kinh nghiệm, với những dụng cụ thô sơ như đèn pin và tuốc nơ vít thì chỉ tìm được những tổ mối nằm lộ trên mặt đất, còn những tổ ở sâu trong lòng đất thì thật khó tìm.
Những tổ mối mà tác giả nêu ra khi tìm được rồi phun thuốc vào để diệt chúng thực ra đó là những "tụ điểm" này mối đã tìm ra được thức ăn mà mối rất thích, nên mối đến rất đông, mà không phải là "tổ mối đích thực" vì tác giả không chứng minh được cái gọi là "tổ mối" được phát hiện đó là tổ chính hay tổ phụ và trong đó có mối vua hay mối chúa hay không? Vì lẽ đó phương pháp này có thể thành công trong khi tìm được "tụ điểm" của tổ mối, tức là nơi tập trung cá thể mối nhiều >15-20% tổng số cá thể trong trong tổ mối, thì sau khi phun thuốc có số lượng lớn cá thể mối (15-20%) bị lây nhiễm dẫn đến chết thối rữa đủ để làm mất cân bằng sinh thái trong tổ mối, làm cho cả tổ mối bị diệt. Và ngược lại nếu không tìm được tụ diểm của tổ mối (không phải là tổ mối đích thực vì trong đó hiện không có mối vua, mối chúa), thì số cá thể bị nhiễm thuốc quá ít (<10%) trong tổng số cá thể một tổ mối, thì khả năng phục hồi của tổ mối có thể diễn ra.
Trong tập sách năm 1958 của Lý Thủy Mỹ mới chỉ đề cập đến tìm tổ và phun thuốc diệt mối trong các công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, mà chưa nói đến nhử và diệt, do vậy cũng chưa chủ động để nhử một số lượng mối đủ lớn (15-20%) để khi phun thuốc làm cho mối lây nhiễm dẫn đến mất cân bằng sinh thái trong tổ mối làm cả tổ bị diệt.
Đối với cách diệt mối cho cây rừng và cây công nghiệp thì Lý Thủy Mỹ (1958) đã dùng phương pháp "dụ mối để diệt". Bằng cách đào hố nhử với kích thước rộng 2,5 thước, dài 3 thước, sâu 2 thước (Trung Quốc) rồi để những mồi mà chúng thích ăn, khi kiểm tra có mối ăn nhiều thì phun thuốc diệt chúng.
Cả 2 phương pháp trên có những ưu điểm là trong một số trường hợp đã diệt được mối, làm cho tổ mối không phục hồi được, nhưng chưa chủ động hoàn toàn, nhất là đối với công trình xây dựng, nhưng qua đó đã có những gợi ý hay cho những gười nghiên cứu diệt mối sau này.
Khoảng 7 năm sau, tập sách của Thái Bang Hoa (1964: Trung Quốc kinh tế côn trùng chí, tập 8, Bạch Nghị) đã đưa ra phương pháp phun thuốc diệt tổ mối. Nội dung của phương pháp này là: Đem thuốc hữu hiệu phun trực tiếp vào trong tổ mối, có thể trong thời gian ngắn làm cho toàn bộ quần thể mối bị diệt tương đối triệt để, nhất là trong tổ mối to, sống tập trung như mối nhà (Coptotermes) thì hiệu quả càng rõ ràng, đó cũng là một phương pháp phòng trị mối được ứng dụng rộng rãi.
Phương pháp này được ứng dụng bằng 2 cách như sau:
1) Tìm tổ mối.
2) Phun thuốc mối.
Về cơ bản của phương pháp phun thuốc diệt mối được tác giả đưa ra hầu như không khác phương pháp của Lý Thủy Mỹ đã nêu ra ở trên là cùng tìm tổ và phun thuốc, nếu có khác là ở chỗ Thái Bang Hoa đã chọn lời khuyên rằng; Phương pháp tìm tổ phun thuốc thường áp dụng có hiệu quả để diệt mối nhà Coptotermes (Rhinotermitidae) nhưng áp dụng ít hiệu quả để diệt đối với các loài mối đất (Termitidae).
Những điều nghi nhận ở trên đây cho thấy rằng về phương pháp phòng trị mối nhà (Coptotermes) ở một số nước lân cận cho đến năm 1964 còn đang dừng lại ở phương pháp tìm tổ và phun thuốc để diệt, nhưng những phương pháp đã được nêu ra ở trên là những gợi ý đúng cho hướng đi sau này khi nghiên cứu diệt mối theo phương pháp lây nhiễm.
Ở nước ta, sau ngày giải phóng miền Bắc năm 1954, nhưng thực chất mãi tới năm 1961, sau khi thành lập Viện nghiên cứu Lâm Nghiệp, nay là Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam, thì công tác nghiên cứu phòng trừ mối mới được tiến hành do đòi hỏi cấp bách của sản xuất và đời sống lúc đó.
Trong quá trình nghiên cứu về bảo quản lâm sản nói chung và phòng trị mối nói riêng, những người nghiên cứu phòng trừ mối đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước kia và đã tìm hướng đi đúng.
Từ những nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất, tác giả Nguyễn Thế Viễn trong bài viết về (Phòng trừ mối trong xây dựng, Tập san Lâm Nghiệp (TSLN) Số 2 và 5 năm 1964) đã đưa ra nhận xét về đặc tính sinh vật học của mối và nghi nhận rằng ở Bắc Việt Nam có hai nhóm mối gây hại gỗ xây dựng là: Mối gỗ khô và mối đất (mối hại cây trồng, hại đê đập, hại đường sắt thuộc lĩnh vực khác), có lẽ danh từ mối gỗ khô, mối đất có tên gọi từ đó. Trong tài liệu này tác giả đã đưa ra cách diệt mối nên làm bẫy để nhử mối: đào 1 hố dài 100cm ngang 50cm, sâu 40cm, cho mồi nhử mối vào đó và tưới nước cho ẩm, đậy nắp lại, khi mối vào nhiều dùng thuốc SiF6NA2, DDT để phun diệt mối. Tác giả Nguyễn Thế Viễn là một trong những người đầu tiên đưa ra phương pháp dùng hố nhử để bẫy mối và diệt chúng trong các công trình xây dựng ở nước ta.
Cũng trong thời gian này, khi nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của mối và biện pháp phòng trừ mối cho công trình xây dựng (Tập san xây dựng (TSXD) số 3,5 và 8 năm 1964) tác giả Nguyễn Xuân Khu đã đưa ra phương pháp phòng chống mối cho công trình xây dựng bằng cách xây dựng một hệ thống cách ly mối, để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Với phương pháp này người ta tạo ra xung quanh công trình xây dựng một hệ thống hàng rào bằng các hố nhử mối với kích thước của hố nhử là: 40-50cm (rộng); 50-60cm (dài); 40-50cm (sâu), hàng rào hố nhử này cách nền móng từ 5 - 10m, trong hố nhử đặt mồi nhử mối, và có nắp đạy ở trên. Khi kiểm tra có nhiều mối trong hố nhử thì dùng thuốc bột, thuốc nước hoặc hun hơi xử lý diệt mối để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Đối với những phương pháp diệt và phòng mối đã kể trên tuy chưa hoàn chỉnh vì chưa chủ động nhử mối để diệt ở bất cứ nơi nào trong công trình xây dựng cũng như đã hạn chế sự phá hại của mối trong công trình xây dựng một cách tích cực.
Sau đó không lâu, công trình "Phòng trừ mối cho nhà cửa và kho tàng", năm 1971 của Nguyễn Chí Thanh đã được công bố. Thông qua những kết quả nghiên cứu có trong tập sách này cho thấy tác giả đã đi sâu nghiên cứu theo định hướng diệt mối theo phương pháp lây truyền và qua đó lý giải có tính thuyết phục về quá trình mối chết sau khi bị lây nhiễm bởi thuốc bột TM-67. Không dừng lại ở đó, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tính ổn định những nhân tố sinh thái (nhiệt độ, độ ẩm) trong một tổ mối trước khi phun thuốc và sự mất ổn định những nhân tố sinh thái trong tổ mối đó sau khi phun thuốc diệt mối dẫn đến cả tổ mối bị diệt - diệt mối tận gốc mà không cần tìm tổ, không cần đào bới. Những kết quả nghiên cứu đó đã làm phong phú thêm về đặc tính sinh học và sinh thái học của giống mối nhà Coptotermes. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bổ sung về giống mối nhà, tác giả đã chỉnh lý để xây dựng Luận văn Phó tiến sĩ và bảo vệ thành công năm 1996.
Trong quá trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Chí Thanh đã cải tiến cách nhử mối, từ hố nhử mối được thay thế bằng hộp nhử mối (hộp bằng các tông, bên trong đựng mồi nhử mối) mà các tác giả trước đó khi nghiên cứu về mối đã chưa đề cập đến. Trước kia muốn nhử mối phải đào hố nhử mối, và như vậy chỉ có thể áp dụng một cách thuận lợi đối với nhà nền đất, còn đào hố nhử mối ở những nhà có nền nhà bằng xi măng hoặc đá hoa, nhà cao tầng, biệt thự, mái nhà lợp ngói thì khó thực hiện vì sẽ ảnh hưởng đến độ bền vững và vẻ đẹp vốn có của công trình. Còn đối với hộp nhử mối thì nó sẽ khắc phục được những nhược điểm trên, vì hộp nhử mối có thể đặt hoặc buộc chặt vào bất cứ nơi nào có mối qua lại để nhử và diệt chúng trong các công trình xây dựng.
Những cải tiến từ hố nhử bằng thùng nhử và sau cùng là hộp nhử mối có ý nghĩa thực tiễn nhiều, vì có được hộp nhử mối con người sẽ chủ động dụ được nhiều mối từ tổ mối để diệt chúng một cách triệt để (ở đây chỉ mối nhà Coptotermes).
Tuy vậy không phải trường hợp nào cũng áp dụng phương pháp diệt lây truyền cũng thành công cả. Trong cuốn sách "Mối ở miền Bắc Việt Nam 1976" của Nguyễn Đức Khảm, tác giả nghi nhận rằng "Sau khi công trình nghiên cứu của Lý Thủy Mỹ ra đời một thời gian thì thành tựu đó cũng được áp dụng vào miền Bắc nước ta, song kết quả thì không được là bao và thường mối không bị diệt trong toàn tổ" (tài liệu dẫn trang 182-1976).
Mười năm sau, qua những nghiên cứu và thực nghiệm về diệt mối, Nguyễn Đức Khảm và Vũ Văn Tuyển (1985) và không xa với những kết quả nghiên cứu đã được công bố ở trong nước về "Diệt mối theo phương pháp lây truyền" của Nguyễn Chí Thanh (1971). Tác giả Nguyễn Đức Khảm (1985) đã nghi nhận "Trong một số trường hợp nhất là khi không có cách truy tìm được tổ chính hoặc khi thăm dò tổ chính gặp khó khăn do một nguyên nhân nào đó, thì việc sử dụng biện pháp lây nhiễm một cách đúng quy trình và có thể là việc cần thiết, và thuốc bột acsenic là loại thuốc được dùng để diệt mối bằng phương pháp lây nhiễm tốt nhất hiện nay, nhưng các hợp chất này là những chất có chứa độc tố cho mối chết, nên khi sử dụng thuốc phải theo đúng quy trình và quy định bảo hộ lao động.
Ở Việt Nam ngoài những công trình nghiên cứu về diệt mối theo phương pháp lây truyền, còn có những kết quả về "phòng mọt, mục cho gỗ", "chọn các loại gỗ có sức đề kháng với tự nhiên đối với mối", "tìm tổ để diệt, cách ly cơ giới đối với mối, phòng mối có trọng điểm", "xử lý chân tường để phòng mối", "phương pháp phóng xạ", "phương pháp thăm dò điện để tìm tổ mối và diệt chúng", "Bơm nước và thuốc sát trùng vào tổ mối để diệt chúng".
- Xác nhận thông tin địa chỉ của khách hàng.
- Có mặt tại công trình để điều tra nguyên nhân phát sinh mối.
- Khảo sát tình hình phá hoại của mối: kiểm tra mức độ phá của mối ở tất cả các khu vực trong ngôi nhà.
- Phân tích độ tuổi của mối và loại mối: Loài mối này đã xâm nhập bao lâu.
- Cách thức xâm nhập của mối: Kiểm tra xem chúng xâm nhập bằng đường nào.
- Điều tra nguyên nhân bị mối xông: Nắm bắt đúng nguyên nhân phát sinh mối để hiệu quả diệt cao nhất.
- Lập phương án diệt mối.
- Báo giá diệt mối.
- Ký kết hợp đồng diệt mối.
Diệt mối tận gốc được chúng tôi thực hiện quy trình diệt mối lây truyền cụ thể qua 4 bước như sau:
Bước 1: Khảo sát mối
Ngay sau khi liên lạc tiếp nhận được thông tin của địa chỉ nhà chú Tuấn chúng tôi đã có mặt ngay sau 45 phút. Chúng tôi thực hiện khảo sát mối cho toàn bộ ngôi nhà và tập trung vào những vị trí thường có mối hay gây hại và tìm kiếm thức ăn bằng các vật liệu có kết cấu gỗ như: Khuân cửa, tủ bếp, chân cầu thang, ốp chân tường gỗ, tủ sách, tủ quần áo, ổ điện, tường nhà. Xác định được loại mối, độ tuổi của mối và các vị trí đang có mối gây hại và hoạt động.
Bước 2: Đặt hộp nhử mối
Đặt hộp nhử mối vào tất cả các vị trí đang có mối hoạt động. Nếu mối xông ở vị trí trên cao thì cần phải buộc hộp nhử chắc chắn không bị di chuyển.
Số lượng hộp nhử thì đặt tùy theo mức độ mối gây hại nhiều hay ít, số lượng cá thể mối nhiều hay ít. Chúng ta có thể đặt từ 1 cho đến 3 hộp. Nếu sau một tuần kiểm tra kết quả mồi nhử, nếu mối vào hộp nhiều và ăn mồi tốt thì chúng ta có thể bổ xung thêm hộp nhử mối để tránh trường hợp mối ăn rỗng.
Bước 3: Phun thuốc diệt mối
Sau khi đặt mồi nhử được khoảng 14 - 20 ngày tùy theo lượng mối vào nhanh hay chậm chúng ta sẽ tiến hành phun thuốc diệt mối. Tháo hộp nhử sau đó mang ra phía bên ngoài công trình để phun thuốc diệt mối dạng bột PMC 90DP sao cho an toàn nhất.
Phun thuốc lên toàn bộ bề mặt của thân mối, phun với lượng thuốc vừa đủ để mối khỏe mạnh mang thuốc về tổ lây nhiễm sang các cá thể khác và mối vua, mối chúa. Để tiêu diệt toàn bộ hệ thống tổ.
Bước 4: Thu dọn hộp nhử và đánh giá kết quả
Sau khi phun thuốc diệt mối được 6 - 7 ngày thì thu dọn hộp nhử đem chôn hoặc đốt (chú ý tránh hỏa hoạn) đồng thời kiểm tra những đường mối đi lại trước kia, nếu không thấy mối sống thì việc diệt mối tận gốc có kết quả cao nhất.
Phòng mối cho công trình đang sử dụng có các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp phòng mối bằng thuốc.
- Phương pháp phòng mối kết hợp.
- Phương pháp phòng mối dùng bả.
Là phương pháp chỉ dùng thuốc phòng chống mối để bảo vệ công trình đang sử dụng (theo điều 7 của TCVN 7958 : 2008). Hiện nay phương pháp này đang được dùng phổ biến ở Việt Nam.
1.1 Đối với các công trình loại A
1.1.1 Lập hàng rào ngầm phòng mối bên trong
Tạo hàng rào thuốc theo phương thẳng đứng bao quanh liên tục tường móng phía trong công trình, nhằm ngăn chặn tích cực mối từ nền lên công trình.
Biện pháp xử lý:
Chỉ dùng thuốc dạng lỏng. Khoan lỗ xuyên qua lớp ngạch hoạc bê tông cho tới đất. Các lỗ khoan cách đều nhau và cách chân tường gần nhất theo điều kiện thực tế. Bơm đủ thuốc phòng chống mối vào lỗ, sau đó dùng xi măng cát trít các lỗ khoan.
1.1.2 Xử lý mặt nền tầng 1
Dùng thuốc phòng mối tạo thành lớp chướng ngại vật theo phương nằm ngang, nhằm ngăn ngừa mối từ dưới đất chui lên hoặc chui xuống trú ngụ, làm tổ.
Biện pháp xử lý:
Chỉ dùng thuốc dạng lỏng
- Ở những nơi có đường mối từ nền đi lên thì khoan các lỗ xuyên qua nền tới đất. Bơm đủ thuốc vào lỗ và phun thuốc lên mặt nền khu vực có mối, sau đó dùng xi măng cát trít kín miệng lỗ:
- Nếu đường ống xuyên qua mặt nền có dấu vết cảu mối thì hoan lỗ xung quanh rồi bơm thuốc đầy vào các lỗ khoan đó.
1.1.3 Lập hàng rào ngầm phòng mối bên ngoài
Tạo hàng rào thuốc phòng mối theo phương thẳng đứng bao quanh liên tục theo chân tường móng phía ngoài công trình, nhằm ngăn nhừa mối từ các vùng lân cận xâm nhập vào công trình.
Chỉ dùng thuốc dạng lỏng. Khoan lỗ xuyên qua lớp ngạch hoặc bê tông cho tới đất. Các lỗ khoan cách đều nhau và cách chân tường ngoài gần nhất theo điều kiện thực tế. Bơm đủ thuốc phòng mối vào lỗ, sau đó dùng xi măng cát trít kín các miệng lỗ.
1.1.4 Xử lý phần tường tiếp giáp với các khuôn cửa
Cậy nẹp của các khuôn cửa gỗ, khoan vào chỗ tiếp giáp giữa khuôn và tường, lỗ khoan cách đều nhau, khoan cả hai phía đối diện của khuôn và bố trí các lỗ khoan so le nhau. Bơm đủ thuốc phòng mối vào lỗ.
Với chân khuôn cửa đi, khoan các lỗ xung quanh chân khuôn xuống nền nhà. Bơm đủ thuốc vào lỗ sau đó dùng xi măng cát trít lại.
Với chân khuôn cửa đi ở các tầng gác, nếu bị mối ăn cũng phải xử lý như chân khuân cửa ở nền nhà, nhưng chiều sâu cử lỗ khoan chỉ bằng phần chân khuôn cửa nằm trong sàn.
1.1.5 Xử lý tường trong và ngoài công trình
Dùng dung dịch thuốc phòng chống mối phun vào các mặt tường trong và tường ngoài công tringf, tạo thành màng kín, nhămg ngăn ngừa mối lên trên công trình.
Với mặt tường trong, chiều cao phun từ sàn tới mép trần.
Với mặt tường ngoài, chiều cao phun từ mặt nền ngoài lên cao tới bậu cửa sổ.
Biện pháp xử lý: Chỉ dùng thuốc dạng lỏng. Dùng dung dịch thuốc phòng chống mối phun sương từ 2 lần đến 3 lần lên các mặt tường, mỗi lần cách nhau từ 20 phút đến 30 phút bằng bình áp lực.
1.1.6 Xử lý mặt tường trong và mặt tường ngoài tầng hầm (nếu có).
Biện pháp xử lý:
Với mặt tường trong tầng hầm thì phun từ sàn tới mép trần.
Với mặt tường ngoài tầng hầm chiều cao phun từ móng chân tường đến hết chiều cao của tường.
1.1.7 Xử lý nơi để hàng, kho chứa ...ở sàn tàng hầm.
Biện pháp xử lý:
Dùng dung dịch thuốc phòng chống mối phun lên mặt sàn nơi này nhằm ngăn ngừa mối đi lại hoặc trú ngụ trong khu vực đó.
1.1.8 Xử lý các kết cấu gỗ và vật liệu chứa xen-lu-lô.
Phun hoặc quét thuốc thuốc phòng chống mối lên tất cả các bề mặt của kết cấu và vật liệu chứa xen-lu-lô, nhằm ngăn ngừa, tiêu diệt mối, phá hoại kết cấu gỗ và vật liệu chứa xen-lu-lô.
Biện pháp xử lý:
Dùng bình phun áp lực phun thuốc phòng chống mối lên toàn bộ bề mặt của tất cả các kết cầu gỗ và vật liệu chứa xen-lu-lô. Phải phun đều, phun sương từ 2 lần đến 3 lần sao cho tạo thành màng kín không cho mối âm nhập phá hoại.
Với các chi tiết của kết cấu gỗ, kết cấu chứa xen-lu-lô nằm ở phía trong bị che khuất (ví dụ: ốp tường, ốp chân, lát sàn, khung gỗ,...) phải tháo một số thanh mặt ngoài để có thể lùa vòi phun của bơm áp lực vào phun thuốc lên các mặt gỗ bị che khuất. Trường hợp không thể tháo được một số thanh mặt ngoài thì khoan các lỗ sao cho bơm được thuốc vào các chi tiết gỗ, xenlulo bị che khuất.
Với các chi tiết gỗ hay vật liệu chứa xen-lu-lô thay mới cũng phải phun thuốc vào các mặt gỗ trước khi lắp ráp, đánh vecni hoặc sơn.
Các chi tiết gỗ đã được xử lý thuốc, nhưng khi nắp ráp nếu phải cắt, bào, đục thì cũng phải phun hoặc quét thuốc vào chỗ đó.
Chú thích; Đối với bàn nghế, trạn bát, tủ đựng thức ăn thì không phun thuốc.
1.2 Đối với công trình loại B
1.2.1 Lập hàng rào phòng mối ngầm bên trong:
Biên pháp xử lý như ở 1.1.1
1.2.2 Xử lý mặt nền tầng 1
Biên pháp xử lý nhử ở 1.1.2
1.2.3 Lập hàng rào ngầm phòng mối bên ngoài
Biện pháo xử lý như ở 1.1.3
1.2.4 Xử lý phần tường giáp với khuân tủ gỗ
Biện pháp xử lý như ở 1.1.4
1.2.5 Xử lý chân tường phía trong tầm hầm 1
Dùng dung dịch thuốc phòng chống mối phun vào mặt chân tường phía trong của công trình. Chiều cao phun từ sàn lên cao 0,5m, phun đều để tạo thành màng kín và phun từ 2 lần đến 3 lần, mỗi lần cách nhau từ 20 phút đến 30 phút.
1.2.6 Xử lý các kết cấu gỗ và vật liệu chứa xen-lu-lô
Biện pháp xử lý nhử ở 1.1.8
1.3 Đối với công trình loại C
1.3.1 Lập hàng rào chống mối ngầm bên trong
Biên pháp xử lý như 1.1.1
1.3.2 Xử lý mặt nền tầng 1
Biện pháp xử lý như 1.1.2
1.3.3 Xử lý phần tường tiếp giáp với các khuân cửa gỗ
Biện pháp xử lý như ở 1.1.4
1.3.4 Xử lý chân tường phía trong tầng 1
Biện pháp xử lý nhử ở 1.2.5
1.3.5 Xử lý các kết cấu gỗ và vật liệu chứa xen-lu-lô
Biện pháp xử lý như ở 1.1.8
Là phương pháp sử dụng một số vật liệu xây dựng theo tiêu chuẩn, kết hợp dùng thuốc phòng chống mối để bảo vệ các kết cấu gỗ và vật liệu chứa xen-lu-xô của công trình (theo điều 6 của TCVN 7958 : 2008 Bảo vệ công trình xây dựng - phòng chống mối cho công trình xây dựng mới) và xem phụ lục B.
Phương pháp này chỉ áp dụng đối với các công trình đang sử dụng có điều kiện cải tạo, sửa chữa. Còn các phần việc phòng chống mối không áp dụng được theo điều 6 của TCVN 7968 : 2008, thì phải thực hiện như điều 1.
Phương pháp này có thể sử dụng để phòng chống mối mối nhằm giảm bớt một số đàn mối hiện có trong công trình và giúp một phần cho việc giám sát hoạt động của đàn mối.
Nhưng phương pháp này không phòng được mối triệt để vì không ngăn ngừa được mối vào công trình bằng con đường bay giao hoan, hoặc bằng những con đường bay giao hoan, hoặc bằng những con đường khác không qua chỗ đặt bả.
Phòng mối bằng bả muốn phát huy hiệu quả , thì phải kiểm soát và bảo dưỡng định kỳ. Bả có tác dụng chậm hơn thuốc trong đất và thời gian kó dài vì cần nhiều tháng để mối tìm thấy bả. Sau đó ăn đủ số chất độc thì mối mới bị chết.
Có rất nhiều loại bả diệt mối, có tác dụng khác nhau đối với các loài mối khác nhau. Sản phẩm bả phải nghi rõ tên hoạt chất diệt mối và được cấp giấy phép sử dụng của cơ quan quản lý nhà nước.
Tùy theo từng loại bả, đặc điểm đối tượng xử lý và môi trường mối hoạt động, phương thức sử dụng bả khác nhau, nhưng nhìn chung có các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Đặt bả nhử mối
Sau khi đã khảo sát cho biết thành phần loài mối, độ tuổi của mối, đặc điểm tác hại, số lượng các điểm cần đặt bả, cách thức đặt bả và lượng bả cần thiết cho mỗi điểm đặt. Các điểm đặt bả phải được bảo đảm ổn định không bị di chuyển hoặc bị nhiễu động trong xuốt quá trình diệt mối để đạt hiệu quả cao nhất.
Bước 2: Theo dõi tình hình sau đặt bả
Theo chu kỳ nhất định khoảng 10 ngày đến 15 ngày hoặc lâu hơn, kỹ thuật viên sẽ kiểm tra lại các vị trí đặt bả để biết mối đã ăn vào bả chưa, tốc dộ tiêu thụ bả, thời gian đàn mối bị tiêu diệt.
Bước 3: Kết thúc thu dọn bả và đánh giá kết quả
Khi kiểm tra thấy các vị trí đặt bả đều hết mối thì công tác diệt đàn mối đó kết thúc, có thể thu dọn các hộp bả. Quá trình diệt mối bằng bả đạt kết quả cao.
- Diệt tận gốc tổ mối mới lấy tiền.
- Đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường.
- Sử dụng thuốc diệt mối sinh học chính hãng.
- Có đội ngũ kỹ thuật viên được đào tạo chuyên sâu, giàu kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp tốt.
- Bảo hành dài hạn từ 12 tháng đến 48 tháng.
- An toàn - hiệu quả - giá cả cạnh tranh nhất.
- Dịch vụ diệt mối tận gốc uy tín, chuyên nghiệp, chất lượng tốt với giá cạnh tranh.
- Chúng tôi có mặt nhanh chóng sau khi nhận được thông tin địa chỉ của khách hàng.
- Diệt mối bằng công nghệ sinh học an toàn tuyệt đối với con người và môi trường.
- Có các chuyên gia đầu nghành và đội ngũ kỹ thuật viên chuyên nghiệp nhất.
- Bảo hành dài hạn từ 12 - 60 tháng.
- Diệt tận gốc tổ mối nhanh chóng và an toàn.
- An toàn cho trẻ em và thú cưng.
- Thuốc diệt mối được Bộ Y tế cấp phép sử dụng.
Dịch vụ diệt mối tận gốc được nhiều người quan tâm:
Dịch vụ diệt mối tận gốc 6 tại Hà Nội
Dịch vụ diệt mối tận gốc 7 tại Hà Nội
Diệt mối tận gốc tại quận Hoàn Kiếm
Dịch vụ diệt mối tận gốc 8 tại Hà Nội
Diệt mối tận gốc tại quận Hoàng Mai
Dịch vụ diệt mối tận gốc 9 tại Hà Nội
Diệt mối tận gốc tại huyện Mỹ Đức
Dịch vụ diệt mối tận gốc 10 tại Hà Nội
Diệt mối tận gốc tại huyện Hoài Đức
Dịch vụ diệt mối 11 tại Hà Nội
Dịch vụ diệt mối tận gốc 12 tại Hà Nội
Diệt mối tận gốc tại Lê Trọng Tấn - Hà Nội
Mọi thông tin xin liên hệ:
Công Ty TNHH Kinh Doanh Dịch Vụ Diệt Mối Anh Tuấn
Địa chỉ: Số 9 ngõ 181 - Xuân Thủy - Cầu Giấy - Hà Nội
Điện thoại (Zalo): 0979 48 48 55
Email: tranvankhang201981@gmail.com
Website: www.dietmoianhtuan.com