Công ty diệt mối Anh Tuấn chuyên cung cấp dịch vụ diệt mối tại thành phố Vũng Tàu với giá cạnh tranh hàng đầu tại Việt Nam. Là công ty được thành lập năm 2004, uy tín, chuyên nghiệp, với trên 19 năm kinh nghiệm xử lý diệt mối tận gốc, phòng chống mối, diệt côn trùng, phun khử khuẩn cho nhà ở, công ty, cơ quan, khu di tích, kho tàng, nhà hàng, khách sạn, quán cà phê, quán karaoke, và nhiều công trình xây dựng khác liên quan bị mối gây hại.
Thành phố Vũng Tàu hiện nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, có hai đảo là đảo Long Sơn và đảo Gò Găng. Là thành phố tiếp giáp với biển lên tại đây du lịch biển phát triển rất mạnh, dọc theo tuyến quốc lộ 51 là các nhà hàng hàng, quán ăn, dịch vụ phát triển mạnh, dân cư tập trung đông đúc. Nhiều khu di tích lịch sử được lưu giữ như: tịnh xá Ngọc Đa, chùa Nam Sơn, tịnh thất Hải Trí, chùa khỉ Viba, chùa quan âm Nam Hải, chùa Phước Hải Tự, chùa Quan Âm Các, chùa Hộ Pháp, linh Quang Tịnh Xá (Hồn Một), di tích Nhà Lớn, chùa Linh Sơn Cổ Tự...
Hiện nay tại thành phố Vũng Tàu loại mối gây hại trong các công trình xây dựng là mối gỗ ẩm (mối nhà), mối đất, mối gỗ khô. Nhưng loài mối gỗ ẩm chiếm tới 97% trong các công trình xây dựng. Mối sinh trưởng và phát triển nhanh, thích hợp với khí hậu gió mùa, nóng ẩm. Chúng gây hại trên tường, ổ điện, khuôn cửa, tủ bếp, cầu thang, sàn gỗ, trần nhà, kèo, cột, cây sống,...Mối sống dưới lòng đất, cách mặt đất 1,2 - 1,5m, mối là sinh vật phong phú về loài, đa dạng về tác hại, sinh trưởng nhanh, khả năm thích ứng cao với điều kiện môi trường tại thành phố Vũng Tàu.
Quý đang cần tìm công ty diệt mối tại thành phố Vũng Tàu xin liên hệ ngay qua Hotline: 0979 48 48 55 để được tư vấn và xử lý kịp thời.
Địa chỉ: Số 230 đường 30/4, Phường Rạch Rừa, Thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Thành phố Vũng Tàu nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có khí hậu nóng ẩm nên nước ta chịu ảnh hưởng rất mạnh của các sinh vật hại, trong đó đặc biệt nguy hiểm là mối. Mối là sinh vật phong phú về loài, đa dạng về tác hại, sinh trưởng nhanh, khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường. Theo điều tra chưa đầy đủ, ở nước ta có khoảng 83 loài mối sinh sống và gây hại, trong đó đặc biệt nguy hiểm là các loài mối đất thuộc họ Isoptera, mối nhà thuộc họ Rhinoterminidae và mối gỗ thuộc họ Kaloterminitae.
Lưu ý: Khi quý khách phát hiện trong ngôi nhà của mình có mối gây hại, quý khách không nên xịt bất kỳ loại hóa chất hay dung dịch diệt mối nào, không nên tháo dỡ hay di chuyển các vật dụng có mối sang vị trí khác (trừ tài liệu quan trọng) để kỹ thuật viên đến xử lý mối tận gốc đạt hiệu quả cao nhất.
1. Dịch vụ diệt tận gốc các loại mối phá hại nhà cửa, kho tàng, đê điều, khu di tích, cơ quan, công ty như: diệt mối gỗ ẩm (mối nhà), diệt mối đất, diệt mối gỗ khô, diệt mối cánh, diệt mọt gỗ.
2. Diệt mối xông khuân cửa, cầu thang, tủ bếp, ổ điện, trần gỗ, sàn gỗ, ốp chân tường gỗ, tủ tài liệu, két sắt, tủ quần áo, kho hàng...
3. Tư vấn, thiết kế, thi công xử lý phòng chống mối, mọt ngay từ nền móng cho các công trình bắt đầu xây dựng mới.
4. Dịch vụ diệt mối, muỗi, kiến, gián, chuột...bằng các hóa chất thế hệ mới (chỉ phun một lần duy nhất nhưng có tác dụng diệt trừ và xua đuổi côn trùng trong thời gian từ 4 - 6 tháng, thuốc không mùi, không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường).
5. Khử trùng các kho tài liệu, kho hàng hóa...bị côn trùng gây hại tấn công.
6. Kinh doanh các loại thuốc phòng chống mối, mọt, các loại thuốc bảo quản gỗ, thuốc diệt côn trùng: muỗi, kiến, gián...
7. Cung cấp hộp nhử mối chất lương cao, dễ nhử mối, mồi ngon trên toàn Quốc.
1. Chủng loại mối và phân bố
Cho đến bây giờ khó có thể tìm được những tài liệu nghiên cứu về phân loại mối hoặc những tác hại của mối trong các thư tịch cổ xưa nhất ở nước ta. Vào đầu thế kỷ 20 Holmgren 1922 đã mô tả các loài mối và tiếp đó là Bathellier 1927 đã có công trình nghiên cứu về hệ thống phân loại, sinh học về mối ở Đông Dương, trong tài liệu này có 19 loài mối đã được nghi nhận phân bố ở Đông Dương, trong đó có 17 loài phân bố ở Việt Nam. Sau 1945, qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nghiên cứu về mối tạm thời bị gián đoạn.
Hòa bình lập lại năm 1954 đất nước vẫn 2 miền chia cắt, việc nghiên cứu về mối vẫn 2 miền riêng lẽ.
Ở Bắc Việt Nam những nghiên cứu về mối được bắt đầu từ năm 1962 và sau đó, những kết quả nghiên cứu về thành phần, phân bố và sinh học về mối đã được công bố, đáng chú ý là công trình "Mối (côn trùng bộ Isoptera) ở miền Bắc Việt Nam" (Luận văn Khoa học Nguyễn Đức Khảm) với một nội dung cơ bản của luận văn này tác giả đã tu chỉnh và xuất bản thành tập sách "Mối ở miền Bắc Vệt Nam 1976".
Trong tác phẩm này có 4 họ mối (Kalotermitidae, Termopsidae, Rhinotermitidae và Termitidae), 20 giống gồm 61 loài mối thuộc bộ cánh bằng (Isoptera) đã được nghi nhận ở Bắc Việt Nam. Gần 13 năm sau cũng chính tác giả đã thông báo bổ sung về tên các loài mối được phát hiện ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong tài liệu "Danh sách những loài mối ở Việt Nam đã được tu chỉnh và bổ sung", chính tác giả đã bổ sung thêm 3 giống gồm 21 loài, đưa tổng số mối được phát hiện ở Việt Nam đến năm 1989 là 23 giống gồm 82 loài mối thuộc bộ cánh bằng ((Isoptera) ( Nguyễn Đức Khảm 1989). Tiếp theo đó khi nghiên cứu về một loài mối hại đê đập Vũ Văn Tuyển (1982) đã bổ sung thêm một số loài mối hại đê.
Ở Nam Việt Nam; Theo tài liệu của Lâm Bình Lợi, Patrick y Durand (1971) thì ở Việt Nam có 3 họ (Kalotermitidae, Rhinotermitidae và Termitidae không có họ Termopsidae), 18 giống gồm 37 loài được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó Kalotermitidae có 1 giống gồm 1 loài, Rhinotermitidae có 3 giống gồm 7 loài và Termitidae có 14 giống gồm 29 loài. Gần đây trong công trình "Mối Macrotermes (Termitidae, Isoptera) ở Việt Nam và biện pháp phòng trừ (Luận văn Khoa học 1997" của Nguyễn Tân Vương) tài liệu này đưa ra 14 loài mối thuộc giống Macrotermes được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó có 4 loài mới có khu hệ và 3 loài mới cho kha học. Như vậy ở Việt Nam có 18 giống gồm 44 loài thuộc Isoptera được phát hiện từ Đèo Ngang trở vào (Lâm Bình Lợi 1971 và Nguyễn Tân Vương 1997).
2. Phòng trừ mối
Nhìn lại phương pháp phòng trừ mối ở các nước lân cận gần đây cho thấy rằng "Phương pháp phòng trị mối" của Lý Thủy Mỹ được xuất bản bằng tiếng Trung Quốc năm 1958, và được Xuân Chỉ dịch ra tiếng Việt năm 1961 là một tài liệu được chú ý nhiều. Đối với cách diệt mối trong công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, thì Lý Thủy Mỹ chú ý đặc biệt đến cách tìm tổ và phun thuốc vào tổ trực tiếp để diệt mối, nhưng theo cách tìm tổ bằng kinh nghiệm, với những dụng cụ thô sơ như đèn pin và tuốc nơ vít thì chỉ tìm được những tổ mối nằm lộ trên mặt đất, còn những tổ ở sâu trong lòng đất thì thật khó tìm.
Những tổ mối mà tác giả nêu ra khi tìm được rồi phun thuốc vào để diệt chúng thực ra đó là những "tụ điểm" này mối đã tìm ra được thức ăn mà mối rất thích, nên mối đến rất đông, mà không phải là "tổ mối đích thực" vì tác giả không chứng minh được cái gọi là "tổ mối" được phát hiện đó là tổ chính hay tổ phụ và trong đó có mối vua hay mối chúa hay không? Vì lẽ đó phương pháp này có thể thành công trong khi tìm được "tụ điểm" của tổ mối, tức là nơi tập trung cá thể mối nhiều >15 - 20% tổng số cá thể trong trong tổ mối, thì sau khi phun thuốc có số lượng lớn cá thể mối (15 - 20%) bị lây nhiễm dẫn đến chết thối rữa đủ để làm mất cân bằng sinh thái trong tổ mối, làm cho cả tổ mối bị diệt. Và ngược lại nếu không tìm được tụ điểm của tổ mối (không phải là tổ mối đích thực vì trong đó hiện không có mối vua, mối chúa), thì số cá thể bị nhiễm thuốc quá ít (<10%) trong tổng số cá thể một tổ mối, thì khả năng phục hồi của tổ mối có thể diễn ra.
Trong tập sách năm 1958 của Lý Thủy Mỹ mới chỉ đề cập đến tìm tổ và phun thuốc diệt mối trong các công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, mà chưa nói đến nhử và diệt, do vậy cũng chưa chủ động để nhử một số lượng mối đủ lớn (15 - 20%) để khi phun thuốc làm cho mối lây nhiễm dẫn đến mất cân bằng sinh thái trong tổ mối làm cả tổ bị diệt.
Đối với cách diệt mối cho cây rừng và cây công nghiệp thì Lý Thủy Mỹ (1958) đã dùng phương pháp "dụ mối để diệt" . Bằng cách đào hố nhử với kích thước rộng 2,5 thước, dài 3 thước, sâu 2 thước (Trung Quốc) rồi để những mồi mà chúng thích ăn, khi kiểm tra có mối ăn nhiều thì phun thuốc diệt chúng.
Cả 2 phương pháp trên có những ưu điểm là trong một số trường hợp đã diệt được mối, làm cho tổ mối không phục hồi được, nhưng chưa chủ động hoàn toàn, nhất là đối với công trình xây dựng, nhưng qua đó đã có những gợi ý hay cho những gười nghiên cứu diệt mối sau này.
Khoảng 7 năm sau, tập sách của Thái Bang Hoa (1964: Trung Quốc kinh tế côn trùng chí, tập 8, Bạch Nghị) đã đưa ra phương pháp phun thuốc diệt tổ mối. Nội dung của phương pháp này là: Đem thuốc hữu hiệu phun trực tiếp vào trong tổ mối, có thể trong thời gian ngắn làm cho toàn bộ quần thể mối bị diệt tương đối triệt để, nhất là trong tổ mối to, sống tập trung như mối nhà (Coptotermes) thì hiệu quả càng rõ ràng, đó cũng là một phương pháp phòng trị mối được ứng dụng rộng rãi.
Phương pháp này được ứng dụng bằng 2 cách như sau:
1) Tìm tổ mối
2) Phun thuốc mối
Về cơ bản của phương pháp phun thuốc diệt mối được tác giả đưa ra hầu như không khác phương pháp của Lý Thủy Mỹ đã nêu ra ở trên là cùng tìm tổ và phun thuốc, nếu có khác là ở chỗ Thái Bang Hoa đã chọn lời khuyên rằng; Phương pháp tìm tổ phun thuốc thường áp dụng có hiệu quả để diệt mối nhà Coptotermes (Rhinotermitidae) nhưng áp dụng ít hiệu quả để diệt đối với các loài mối đất (Termitidae).
Những điều nghi nhận ở trên đây cho thấy rằng về phương pháp phòng trị mối nhà (Coptotermes) ở một số nước lân cận cho đến năm 1964 còn đang dừng lại ở phương pháp tìm tổ và phun thuốc để diệt, nhưng những phương pháp đã được nêu ra ở trên là những gợi ý đúng cho hướng đi sau này khi nghiên cứu diệt mối theo phương pháp lây nhiễm.
Ở nước ta, sau ngày giải phóng miền Bắc năm 1954, nhưng thực chất mãi tới năm 1961, sau khi thành lập Viện nghiên cứu Lâm Nghiệp, nay là Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam, thì công tác nghiên cứu phòng trừ mối mới được tiến hành do đòi hỏi cấp bách của sản xuất và đời sống lúc đó.
Trong quá trình nghiên cứu về bảo quản lâm sản nói chung và phòng trị mối nói riêng, những người nghiên cứu phòng trừ mối đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước kia và đã tìm hướng đi đúng.
Từ những nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất, tác giả Nguyễn Thế Viễn trong bài viết về (Phòng trừ mối trong xây dựng, Tập san Lâm Nghiệp (TSLN) Số 2 và 5 năm 1964) đã đưa ra nhận xét về đặc tính sinh vật học của mối và nghi nhận rằng ở Bắc Việt Nam có hai nhóm mối gây hại gỗ xây dựng là: Mối gỗ khô và mối đất (mối hại cây trồng, hại đê đập, hại đường sắt thuộc lĩnh vực khác), có lẽ danh từ mối gỗ khô, mối đất có tên gọi từ đó. Trong tài liệu này tác giả đã đưa ra cách diệt mối nên làm bẫy để nhử mối: đào 1 hố dài 100cm ngang 50cm, sâu 40cm, cho mồi nhử mối vào đó và tưới nước cho ẩm, đậy nắp lại, khi mối vào nhiều dùng thuốc SiF6NA2, DDT để phun diệt mối. Tác giả Nguyễn Thế Viễn là một trong những người đầu tiên đưa ra phương pháp dùng hố nhử để bẫy mối và diệt chúng trong các công trình xây dựng ở nước ta.
Cũng trong thời gian này, khi nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của mối và biện pháp phòng trừ mối cho công trình xây dựng (Tập san xây dựng (TSXD) số 3,5 và 8 năm 1964) tác giả Nguyễn Xuân Khu đã đưa ra phương pháp phòng chống mối cho công trình xây dựng bằng cách xây dựng một hệ thống cách ly mối, để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Với phương pháp này người ta tạo ra xung quanh công trình xây dựng một hệ thống hàng rào bằng các hố nhử mối với kích thước của hố nhử là: 40 - 50cm (rộng); 50 - 60cm (dài); 40 - 50cm (sâu), hàng rào hố nhử này cách nền móng từ 5 - 10m, trong hố nhử đặt mồi nhử mối, và có nắp đạy ở trên. Khi kiểm tra có nhiều mối trong hố nhử thì dùng thuốc bột, thuốc nước hoặc hun hơi xử lý diệt mối để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Đối với những phương pháp diệt và phòng mối đã kể trên tuy chưa hoàn chỉnh vì chưa chủ động nhử mối để diệt ở bất cứ nơi nào trong công trình xây dựng cũng như đã hạn chế sự phá hại của mối trong công trình xây dựng một cách tích cực.
Sau đó không lâu, công trình", năm 1971 của Nguyễn Chí Thanh đã được công bố. Thông qua những kết quả nghiên cứu có trong tập sách này cho thấy tác giả đã đi sâu nghiên cứu theo định hướng diệt mối theo phương pháp lây truyền và qua đó lý giải có tính thuyết phục về quá trình mối chết sau khi bị lây nhiễm bởi thuốc bột TM-67. Không dừng lại ở đó, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tính ổn định những nhân tố sinh thái (nhiệt độ, độ ẩm) trong một tổ mối trước khi phun thuốc và sự mất ổn định những nhân tố sinh thái trong tổ mối đó sau khi phun thuốc diệt mối dẫn đến cả tổ mối bị diệt mà không cần tìm tổ ,không cần đào bới. Những kết quả nghiên cứu đó đã làm phong phú thêm về đặc tính sinh học và sinh thái học của giống mối nhà Coptotermes. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bổ sung về giống mối nhà, tác giả đã chỉnh lý để xây dựng Luận văn Phó tiến sĩ và bảo vệ thành công năm 1996.
Trong quá trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Chí Thanh đã cải tiến cách nhử mối, từ hố nhử mối được thay thế bằng hộp nhử mối (hộp bằng các tông, bên trong đựng mồi nhử mối) mà các tác giả trước đó khi nghiên cứu về mối đã chưa đề cập đến. Trước kia muốn nhử mối phải đào hố nhử mối, và như vậy chỉ có thể áp dụng một cách thuận lợi đối với nhà nền đất, còn đào hố nhử mối ở những nhà có nền nhà bằng xi măng hoặc đá hoa, nhà cao tầng, biệt thự, mái nhà lợp ngói thì khó thực hiện vì sẽ ảnh hưởng đến độ bền vững và vẻ đẹp vốn có của công trình. Còn đối với hộp nhử mối thì nó sẽ khắc phục được những nhược điểm trên, vì hộp nhử mối có thể đặt hoặc buộc chặt vào bất cứ nơi nào có mối qua lại để nhử và diệt chúng trong các công trình xây dựng.
Những cải tiến từ hố nhử bằng thùng nhử và sau cùng là hộp nhử mối có ý nghĩa thực tiễn nhiều, vì có được hộp nhử mối con người sẽ chủ động dụ được nhiều mối từ tổ mối để diệt chúng một cách triệt để (ở đây chỉ mối nhà Coptotermes).
Tuy vậy không phải trường hợp nào cũng áp dụng phương pháp diệt lây truyền cũng thành công cả. Trong cuốn sách "Mối ở miền Bắc Việt Nam 1976" của Nguyễn Đức Khảm, tác giả nghi nhận rằng "Sau khi công trình nghiên cứu của Lý Thủy Mỹ ra đời một thời gian thì thành tựu đó cũng được áp dụng vào miền Bắc nước ta, song kết quả thì không được là bao và thường mối không bị diệt trong toàn tổ" (tài liệu dẫn trang 182-1976).
Mười năm sau, qua những nghiên cứu và thực nghiệm về diệt mối, Nguyễn Đức Khảm và Vũ Văn Tuyển (1985) và không xa với những kết quả nghiên cứu đã được công bố ở trong nước về "Diệt mối theo phương pháp lây truyền" của Nguyễn Chí Thanh (1971). Tác giả Nguyễn Đức Khảm (1985) đã nghi nhận "Trong một số trương hợp nhất là khi không có cách truy tìm được tổ chính hoặc khi thăm dò tổ chính gặp khó khăn do một nguyên nhân nào đó, thì việc sử dụng biện pháp lây nhiễm một cách đúng quy trình và có thể là việc cần thiết, và thuốc bột acsenic là loại thuốc được dùng để diệt mối bằng phương pháp lây nhiễm tốt nhất hiện nay, nhưng các hợp chất này là những chất có chứa độc tố cho mối chết, nên khi sử dụng thuốc phải theo đúng quy trình và quy định bảo hộ lao động.
Ở Việt Nam ngoài những công trình nghiên cứu về diệt mối theo phương pháp lây truyền, còn có những kết quả về "phòng mọt, mục cho gỗ" "chọn các loại gỗ có sức đề kháng với tự nhiên đối với mối", "tìm tổ để diệt, cách ly cơ giới đối với mối, phòng mối có trọng điểm", "xử lý chân tường để phòng mối", "phương pháp phóng xạ", "phương pháp thăm dò điện để tìm tổ mối và diệt chúng", "Bơm nước và thuốc sát trùng vào tổ mối để diệt chúng".
Để diệt mối và phòng chống mối hiệu quả trong các công trình xây dựng, nhà của, kho tàng thì việc đầu tiên là điều tra khảo sát để phát hiện mối trong các công trình, để từ đó đưa ra phương pháp diệt mối và phòng mối một cách hợp lý. Trong công trình có thể phát hiện một giống, nhưng cũng có thể phát hiện ra nhiều giống mối trong cùng một thời điểm điều tra. Theo kết quả điều tra mối ở Việt Nam thì mối phá hoại nghiêm trọng đối với các công trình xây dựng và nhà cửa.
Khác với côn trùng cánh cứng, mối thuộc bộ cánh đều (cánh bằng) Isoptera, mối có biến thái không hoàn toàn, chỉ có 3 giai đoạn biến thái là trứng, ấu trùng và mối trưởng thành. Mối là côn trùng có tổ chức xã hội và đàn mối trưởng thành có những đẳng cấp: Mối vua, mối chúa, mối lính, mối hậu bị...mỗi đẳng cấp có chức năng khác nhau.
Nếu căn cứ vào thức ăn, phương thức lấy thức ăn, nơi ở của mối,...thì có thể chia mối phá hoại công trình xây dựng ra làm ba nhóm, để thuận tiện cho việc diệt mối và phòng mối.
1. Mối gỗ ẩm (còn gọi là mối nhà)
Đại diện cho nhóm này là giống Coptotermes thuộc họ Rhinotermitidae. Tổ mối các loài này thường sống ở dưới mặt đất, có khi ở trong các tấm panen, tổ mối có liên hệ với nguồn nước và đất, không có vườn nấm, mối tiêu hóa gỗ trực tiếp với sự hỗ trợ của vi sinh vật trong ruột mối. Để phát hiện giống mối này, nhờ những đường mui của chúng đắp trên mặt tường hoặc đường đất đùn ra từ kẽ nứt, khuyết tật của gỗ, quan sát thấy đường mui màu thẫm, ẩm thường có mối bên trong đi lại, nếu đường mối khô, hoặc bong ra thì ít khi phát hiện có mối bên trong. Cũng có thể dùng búa, tuốc-nô-vít gõ vào gỗ phát hiện ra tiếng kêu bục bục sẽ dự đoán có mối.
2. Mối gỗ khô
Trong nhóm này điển hình là giống mối gỗ khô (Crytotermes) thuộc họ Kalotermitidae hại gỗ nghiêm trọng. Giống mối gỗ khô làm tổ trong gỗ đã khô và lấy thức ăn trong tổ mà nó sống, tổ mối không có đường mui, không có liên hệ với nguồn nước và đất, trong tổ mối không có vườn nấm và tiêu hóa gỗ trực tiếp nhờ vi sinh vật trong ruột mối. Lỗ vũ hóa là những lỗ tròn đơn giản, bình thường bị bịt kín, khi vũ hóa hoặc lúc tống phân ra ngoài, mối gậm vứt bỏ chất bịt kín ấy đi.
Dựa vào phân mối thải ra của giống mối này mà chúng ta phát hiện ra mối gỗ khô, phân của giống mối này chất lại thành đống cát, từ đỉnh đống cát này chiếu thẳng đứng lên phía trên có cấu kiện gỗ ta sẽ phát hiện ra tổ mối gỗ khô, phân mối là những viên hình tròn, rời nhau như hạt kê, rất dễ phát hiện.
3. Mối đất
Đại diện của phân nhóm này là các giống Odontotermes thuộc họ Termitidae. Các loài trong phân nhóm này thường ăn các loại gỗ đã mục một phần và loại nấm có ở vườn nấm trong tổ mối, đường mui to có khi liên kết với nhau thành mảng lớn, tổ mối có nắp phòng đợi bay, tổ mối của nhóm này có khi nằm chìm sâu trong lòng đất nên rất khó phát hiện, nhưng cũng có khi nổi trên mặt đất hoặc có khi nửa nổi nửa chìm rất dễ phát hiện, trong khi khảo sát chúng ta cần chú ý như sau:
Nếu tổ mối có nắp phòng đợi bay thì tìm và đánh dấu nơi xuất hiện nắp phòng đợi bay, khi cần đào tổ mối này thì từ nắp phòng đợi bay mà đào để tìm đến tổ chính. Chú ý là nắp phòng đợi bay thường xuất hiện vào tháng 2 đến tháng 6, có khi sớm hơn, có khi muộn hơn thùy theo loài và khi hậu từng nơi, cần phải đnahs dấu vì sau cơn mưa nắp phòng đợi bay có thể mất đi.
Khi đã phát hiện được tổ mối thì đào hoặc khoan lỗ, rồi bơn thuốc phòng chống mối hoặc xông hơi để diệt đàn mối.
⇒ Diệt mối là sử dụng phương pháp thích hợp để diệt cho từng loại mối, sau khi phát hiện mối. Dùng thuốc diệt mối để bơm hoặc phun lên cá thể mối, mối dính thuốc sẽ lây lan nhau mà chết và làm mất cân bằng sinh thái trong hệ thống tổ. Một thời gian mối sẽ bị tiêu diệt và làm chết cả đàn mối.
- Bước 1: Đặt hộp nhử mối vào các vị trí đang có mối hoạt động và những nơi có dấu hiệu của mối.
- Bước 2: Diệt mối tận gốc: Khi mối đó tập trung vào hộp nhử nhiều, dỡ hộp nhử mối ra, tiến hành phun thuốc diệt mối PMC-90DP vào đó và đặt các hộp nhử mối trở lại vị trí ban đầu.
- Bước 3: Sau khi phun thuốc PMC hoặc đặt bả diệt mối được khoảng 05-07 ngày, tiến hành kiểm tra lại kết quả diệt mối, thu dọn hộp nhử mối và đem tiêu huỷ. Nếu kiểm tra các khu vực đó được xử lý mà không còn thấy mối thì coi như tổ mối đã được tiêu diệt hoàn toàn. Ngược lại, nếu còn mối thì phun thuốc hoặc đặt bả diệt mối vào tiếp, sau đó 05-10 ngày kiểm tra lại kết quả diệt mối để đảm bảo tổ mối được tiêu diệt hoàn toàn.
- Bước 4: Sau khi diệt mối xong, tiến hành phun thuốc phòng, chống mối vào các khu vực vừa xử lý diệt mối, đồng thời phun thuốc vào cửa gỗ, chân tường, một số vị trí ẩm thấp, kín gió, thiếu ánh sáng của khu vực xử lý nhằm diệt trừ trực tiếp các ấu trùng mối còn sót lại, đồng thời, ngăn chặn sự xâm nhập của mối từ nơi khác tới và từ dưới lòng đất chui lên.
Dịch vụ diệt mối tại thành phố Vũng Tàu có rất nhiều loại bả diệt mối, có tác dụng khác nhau đối với các loài mối khác nhau. Kiểm tra sản phẩm bả phải nghi rõ tên hoạt chất diệt mối và được cấp giấy phép sử dụng của cơ quan quản lý nhà nước.
Tùy theo từng loại bả, đặc điểm đối tượng xử lý và môi trường mối hoạt động ,phương thức xử dụng bả khác nhau, nhưng nhìn chung cũng có các bước căn bản sau đây:
Bước 1: Đặt bả
Ta tiến hành khảo sát vị trí mối, thành phần loài mối, đặc điểm tác hại, số lượng các điểm cần đặt bả, cách thức đặt bả và lượng bả cần thiết cho mỗi điểm đặt. Các điểm đặt bả phải được đảm bảo ổn định không bị di chuyển hoặc bị nhiễu động trong xuốt quá trình diệt mối.
Bước 2: Theo dõi tình hình bả sau khi đặt
Theo chu kỳ nhất định khoảng 10 ngày đến 15 ngày hoặc lâu hơn, kiểm tra lại các vị trí đặt bả để biết mối đã vào ăn bả chưa, tốc độ tiêu thụ bả, thời gian đàn mối bị tiêu diệt.
Bước 3: Kết thúc
Khi kiểm tra thấy các vị trí đặt bả đều hết mối thì công tác diệt đàn mối đó kết thúc, có thể thu dọn các hộp bả và tiến hành vệ sinh.
1. Cách lỹ cơ giới và vệ sinh môi trường
Kết quả nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của mối cho thấy rằng thường thường mối xâm nhập vào công trình xây dựng bằng 2 con đường chính: thứ nhất là thông qua những đường mối lộ ra hoặc đường ngầm là những cầu nối dẫn mối từ tổ mối đến những vật thể bị hại trong công trình xây dựng; thứ 2 là trong mùa bay giao hoan của mối cánh hàng năm, những con mối cánh bay đến trên những vật thể bị hại rồi chúng rụng cánh, nghép đôi giao phối, làm tổ, sinh sản và phá hại công trình xây dựng. Như vậy vệ sinh môi trường và diệt những tổ mối có cánh trước mùa bay giao hoan của chúng là biện pháp rất tích cực để phòng mối.
1.1 Cách ly cơ giới
Để ngăn chặn mối từ ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng thì tường và nền nhà người ta tạo một lớp cách ly toàn diện và liên tục. Toàn diện là lớp cách ly được thực hiện trên toàn bộ diện tích, còn liên tục là không bị một vật liệu khác trộn lẫn vào làm mất tích liên tục các lớp cách ly. Lớp cách ly làm bằng vữa xi măng mác cao > 80: 1 xi măng +2 cát vàng và chiều dày của lớp cách ly 3 - 4 cm.
Đối với nhà sàn thì chân cột kê trên tảng đá bê tông, có tấm tôn không rỉ hoặc rãnh dầu cách ly.
1.2 Vệ sinh môi trường
Nhà cửa và công trình phải thông thoáng, xung quanh nhà phải sạch sẽ, không để mối xâm nhâp làm tổ.
2. Cách ly hóa học để phòng mối
2.1 Ngâm tẩm gỗ bằng hóa chất để phòng mối xâm nhập
Gỗ trước khi đem sử dụng cần được ngâm tẩm bằng thuốc bảo quản gỗ. Có thể dùng phương pháp ngâm thường, chân không áp lực, đun nóng ngâm lạnh làm cho dung dịch thuốc bảo quản gỗ đi sâu vào trong gỗ để chống lại sự xâm nhập của mối.
Các loại thuốc bảo quản gỗ thường dùng là: LN2, LN3, BQG1.
2.2 Xử lý nền móng bằng lớp hóa chất cách ly
Khi san lấp nền nhà hay móng công trình xây dựng lớn nhỏ cần phải làm sạch móng, nền, vứt bỏ những sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật và những chất hữu cơ khác mà mối thích ăn, diệt những tổ mối khi phát hiện thấy trong khi san lấp móng nền bằng hóa chất hữu hiệu.
Đối với móng nhà: Để ngăn ngừa mối xâm nhập từ bên ngoài vào công trình xây dựng qua móng tường bằng cách tạo một đường hào bằng hóa chất, đường hào này tiếp xúc và bao quanh toàn bộ phía ngoài móng công trình. Kích thước của đường hào 50 - 60cm (rộng), cứ 12 - 14kg thuốc PMD trộn cho một mét khối đất làm hàng rào ngăn mối.
Đối với nền nhà: Trên mặt đất nền nhà đã được làm xong, cần rải một lớp thuốc phòng mối PMD với lượng thuốc 0,7 - 1kg/m², sau đó lát gạch bình thường.
3. Tuyển chọn các loại gỗ có khả năng kháng mối tự nhiên cao để ngăn ngừa mối xâm nhập phá hại.
Các loại gỗ có khả năng kháng mối cao có thể kể như: Đinh, lim xanh, sến, táu mật, muồng đen, cà te, trai, gụ mật, trắc, mỡ, vàng tâm, giổi,...(chỉ dùng phần lõi). Trên thực tế hiện nay các loại gỗ kể trên ngày càng hiếm. Vì vậy có thể dùng các loại gỗ có độ kháng mối kém nhưng ngâm tẩm bằng thuốc bảo quản gỗ trước khi đem dùng để kéo dài thời gian sử dụng.
1. Bảo hành
Sau khi nghiệm thu và thanh lý hợp đồng cho công trình, bên thi công diệt mối và phòng mối phải cam kết bảo hành cho công trình. Trong thời gian bảo hành, bên thi công phải xem xét và kiểm tra mối cho công trình. Nếu phát hiện có mối, bên thi công phải xử lý ngay.
2. An toàn lao động và vệ sinh môi trường
2.1 Người sử dụng thuốc diệt mối và phòng mối phải được qua lớp huấn luyện an toàn lao động.
2.2 Trong khi làm việc người sử dụng thuốc diệt mối và phòng mối phải trang bị bảo hộ lao động (quần áo, găng tay, khẩu trang, ủng, mặt nạ,..) để tránh hít phải thuốc; tránh tiếp xúc với da, mồm, mắt, mũi; không hút thuốc, ăn uống trong khi làm việc.
Trường hợp dính phải thuốc vào người cần thay bảo hộ lao động và rửa sạch vùng bị dính thuốc bằng nhiều nước.
Sau khi sử thuốc phải rửa sạch chân tay hay tắm và rửa, giặt sạch trang bi bảo hộ lao động.
2.3 Không phun thuốc bên trong nhà hay bên trong Cơ quan mà phải tháo hộp mối mang ra phía bên ngoài như: cổng, mái nhà xe, ban công, hay vườn để không ảnh hưởng tới sinh hoạt của gia đình, cũng như an toàn tuyệt đối cho trẻ em và bà bầu.
2.4 Nếu thực hiện phun phòng mối bằng bình áp khí thì phải ngắt mạch điện nơi có đường dây điện trần hoặc dây điện bị hỏng lớp bảo vệ.
Trước khi xử lý thuốc có dung môi dầu, phải tắt nguồn lửa, cắt nguồn điện ở khu vực phun để tránh cháy nổ.
2.5 Trước khi khoan lỗ để thực hiện các phần việc: lập hàng rào phòng mối ngầm trong và ngoài công trình, xử lý phần tường tiếp giáp với các khuân cửa gỗ, xử lý nền tầng 1, xử lý các kết cấu gỗ và vật chứa xen-lu-lô. Cần phải hiểu biết đầy đủ sơ đồ mạng lưới hệ thống (điện, cấp và thoát nước, điện thoại, viễn thông, cáp kỹ thuật khác,..) để tránh khoan vào những chỗ đó gây nguy hiểm tính mạng và làm hỏng các hê thống này.
2.6 Người sử dụng thuốc diệt mối và phòng mối phải tuân theo hướng dẫn sử dụng, bảo quản,...như đã nghi trên bao bì và nhãn thuốc.
2.7 Kho đảm bảo thuốc diệt mối và phòng mối phải đảm bảo các yêu cầu sau (theo quyết định số 145/2002 QDD-BNN ngày 18/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
- Địa điểm kho bảo quản thuốc (ngoài khu công nghiệp) phải được chấp thuận bằng văn bản của chính quyền địa phương có thẩm quyền;
- Kho phải được xây dựng vững chắc, bằng vật liệu khó cháy, không bị úng ngập, đảm bảo thông thoáng, thuận tiện cho các phương tiện chữa cháy hoạt động;
- Kho phải có dụng cụ chữa cháy, phòng độc, cấp cứu và có biển cảnh báo theo quy định của Nhá Nước.
Ngoài cung cấp dịch vụ diệt mối tại thành phố Vũng Tàu chúng tôi còn cung cấp dịch vụ diệt mối tại tất cả các quận huyện thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bao gồm: thị xã Phú Mỹ, thành phố Bà Rịa, huyện Châu Đức, Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Long Điền, Côn Đảo.
Một số bài viết hữu ích được nhiều khách hàng quan tâm:
Diệt mối trong bao nhiêu ngày?
Cần phải làm gì khi phát hiện mối?
Mối có lây từ nhà này sang nhà khác không?
========================================
Mọi thông tin về dịch vụ diệt mối tại thành phố Vũng Tàu xin liên hệ:
Công ty TNHH Kinh Doanh Dịch Vụ Diệt Mối Anh Tuấn
Địa chỉ: Số 230 đường 30/4, Phường Rạch Rừa, Thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa - Vũng Tàu
Hotline (Zalo): 0979 48 48 55
Email: tranvankhang201981@gmail.com
Website: www.dietmoianhtuan.com