Cung cấp dịch vụ diệt mối tận gốc tại huyện Mai Châu uy tín, chuyên nghiệp, giá cả cạnh tranh, bảo hành dài hạn. Công ty diệt mối và côn trùng Anh Tuấn đơn vị có trên 20 năm kinh nghiệm xử lý tất cả các loại mối như: mối gỗ ẩm, mối đất, mối gỗ khô, mối cánh và cả mọt gỗ. Bằng các phương pháp được chuyên gia trong lĩnh vực côn trùng nghiên cứu thành công và đưa ra quy trình xử lý chuyên nghiệp nhất. Quý khách phát hiện khuôn cửa, tủ bếp, sàn gỗ, trần nhà, cầu thang, ổ điện, cây trồng,...có mối gây hại, Quý khách hãy liên hệ ngay vớ chúng tôi qua Hotline (Zalo): 0979 48 48 55 để được tư vấn, hướng dẫn cách khắc phục và xử lý kịp thời.
1. Chủng loại mối và phân bố
Cho đến bây giờ khó có thể tìm được những tài liệu nghiên cứu về phân loại mối hoặc những tác hại của mối trong các thư tịch cổ xưa nhất ở nước ta. Vào đầu thế kỷ 20 Holmgren 1922 đã mô tả các loài mối và tiếp đó là Bathellier 1927 đã có công trình nghiên cứu về hệ thống phân loại, sinh học về mối ở Đông Dương, trong tài liệu này có 19 loài mối đã được nghi nhận phân bố ở Đông Dương, trong đó có 17 loài phân bố ở Việt Nam. Sau 1945, qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nghiên cứu về mối tạm thời bị gián đoạn.
Hòa bình lập lại năm 1954 đất nước vẫn 2 miền chia cắt, việc nghiên cứu về mối vẫn 2 miền riêng lẽ.
Ở Bắc Việt Nam những nghiên cứu về mối được bắt đầu từ năm 1962 và sau đó, những kết quả nghiên cứu về thành phần, phân bố và sinh học về mối đã được công bố, đáng chú ý là công trình "Mối (côn trùng bộ Isoptera) ở miền Bắc Việt Nam" (Luận văn Khoa học Nguyễn Đức Khảm) với một nội dung cơ bản của luận văn này tác giả đã tu chỉnh và xuất bản thành tập sách "Mối ở miền Bắc Vệt Nam 1976".
Trong tác phẩm này có 4 họ mối (Kalotermitidae, Termopsidae, Rhinotermitidae và Termitidae), 20 giống gồm 61 loài mối thuộc bộ cánh bằng (Isoptera) đã được nghi nhận ở Bắc Việt Nam. Gần 13 năm sau cũng chính tác giả đã thông báo bổ sung về tên các loài mối được phát hiện ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong tài liệu "Danh sách những loài mối ở Việt Nam đã được tu chỉnh và bổ sung", chính tác giả đã bổ sung thêm 3 giống gồm 21 loài, đưa tổng số mối được phát hiện ở Việt Nam đến năm 1989 là 23 giống gồm 82 loài mối thuộc bộ cánh bằng ((Isoptera) ( Nguyễn Đức Khảm 1989). Tiếp theo đó khi nghiên cứu về một loài mối hại đê đập Vũ Văn Tuyển (1982) đã bổ sung thêm một số loài mối hại đê.
Ở Nam Việt Nam; Theo tài liệu của Lâm Bình Lợi, Patrick y Durand (1971) thì ở Việt Nam có 3 họ (Kalotermitidae, Rhinotermitidae và Termitidae không có họ Termopsidae), 18 giống gồm 37 loài được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó Kalotermitidae có 1 giống gồm 1 loài, Rhinotermitidae có 3 giống gồm 7 loài và Termitidae có 14 giống gồm 29 loài. Gần đây trong công trình "Mối Macrotermes (Termitidae, Isoptera) ở Việt Nam và biện pháp phòng trừ (Luận văn Khoa học 1997" của Nguyễn Tân Vương) tài liệu này đưa ra 14 loài mối thuộc giống Macrotermes được nghi nhận ở Nam Việt Nam, trong đó có 4 loài mới có khu hệ và 3 loài mới cho kha học. Như vậy ở Việt Nam có 18 giống gồm 44 loài thuộc Isoptera được phát hiện từ Đèo Ngang trở vào (Lâm Bình Lợi 1971 và Nguyễn Tân Vương 1997).
2. Phòng trừ mối
Nhìn lại phương pháp phòng trừ mối ở các nước lân cận gần đây cho thấy rằng "Phương pháp phòng trị mối" của Lý Thủy Mỹ được xuất bản bằng tiếng Trung Quốc năm 1958, và được Xuân Chỉ dịch ra tiếng Việt năm 1961 là một tài liệu được chú ý nhiều. Đối với cách diệt mối trong công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, thì Lý Thủy Mỹ chú ý đặc biệt đến cách tìm tổ và phun thuốc vào tổ trực tiếp để diệt mối, nhưng theo cách tìm tổ bằng kinh nghiệm, với những dụng cụ thô sơ như đèn pin và tuốc nơ vít thì chỉ tìm được những tổ mối nằm lộ trên mặt đất, còn những tổ ở sâu trong lòng đất thì thật khó tìm.
Những tổ mối mà tác giả nêu ra khi tìm được rồi phun thuốc vào để diệt chúng thực ra đó là những "tụ điểm" này mối đã tìm ra được thức ăn mà mối rất thích, nên mối đến rất đông, mà không phải là "tổ mối đích thực" vì tác giả không chứng minh được cái gọi là "tổ mối" được phát hiện đó là tổ chính hay tổ phụ và trong đó có mối vua hay mối chúa hay không? Vì lẽ đó phương pháp này có thể thành công trong khi tìm được "tụ điểm" của tổ mối, tức là nơi tập trung cá thể mối nhiều >15 - 20% tổng số cá thể trong trong tổ mối, thì sau khi phun thuốc có số lượng lớn cá thể mối (15 - 20%) bị lây nhiễm dẫn đến chết thối rữa đủ để làm mất cân bằng sinh thái trong tổ mối, làm cho cả tổ mối bị diệt. Và ngược lại nếu không tìm được tụ điểm của tổ mối (không phải là tổ mối đích thực vì trong đó hiện không có mối vua, mối chúa), thì số cá thể bị nhiễm thuốc quá ít (<10%) trong tổng số cá thể một tổ mối, thì khả năng phục hồi của tổ mối có thể diễn ra.
Trong tập sách năm 1958 của Lý Thủy Mỹ mới chỉ đề cập đến tìm tổ và phun thuốc diệt mối trong các công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi, mà chưa nói đến nhử và diệt, do vậy cũng chưa chủ động để nhử một số lượng mối đủ lớn (15 - 20%) để khi phun thuốc làm cho mối lây nhiễm dẫn đến mất cân bằng sinh thái trong tổ mối làm cả tổ bị diệt.
Đối với cách diệt mối cho cây rừng và cây công nghiệp thì Lý Thủy Mỹ (1958) đã dùng phương pháp "dụ mối để diệt". Bằng cách đào hố nhử với kích thước rộng 2,5 thước, dài 3 thước, sâu 2 thước (Trung Quốc) rồi để những mồi mà chúng thích ăn, khi kiểm tra có mối ăn nhiều thì phun thuốc diệt chúng.
Cả 2 phương pháp trên có những ưu điểm là trong một số trường hợp đã diệt được mối, làm cho tổ mối không phục hồi được, nhưng chưa chủ động hoàn toàn, nhất là đối với công trình xây dựng, nhưng qua đó đã có những gợi ý hay cho những người nghiên cứu diệt mối sau này.
Khoảng 7 năm sau, tập sách của Thái Bang Hoa (1964: Trung Quốc kinh tế côn trùng chí, tập 8, Bạch Nghị) đã đưa ra phương pháp phun thuốc diệt tổ mối. Nội dung của phương pháp này là: Đem thuốc hữu hiệu phun trực tiếp vào trong tổ mối, có thể trong thời gian ngắn làm cho toàn bộ quần thể mối bị diệt tương đối triệt để, nhất là trong tổ mối to, sống tập trung như mối nhà (Coptotermes) thì hiệu quả càng rõ ràng, đó cũng là một phương pháp phòng trị mối được ứng dụng rộng rãi.
Phương pháp này được ứng dụng bằng 2 cách như sau:
1) Tìm tổ mối
2) Phun thuốc mối
Về cơ bản của phương pháp phun thuốc diệt mối được tác giả đưa ra hầu như không khác phương pháp của Lý Thủy Mỹ đã nêu ra ở trên là cùng tìm tổ và phun thuốc, nếu có khác là ở chỗ Thái Bang Hoa đã chọn lời khuyên rằng; Phương pháp tìm tổ phun thuốc thường áp dụng có hiệu quả để diệt mối nhà Coptotermes (Rhinotermitidae) nhưng áp dụng ít hiệu quả để diệt đối với các loài mối đất (Termitidae).
Những điều nghi nhận ở trên đây cho thấy rằng về phương pháp phòng trị mối nhà (Coptotermes) ở một số nước lân cận cho đến năm 1964 còn đang dừng lại ở phương pháp tìm tổ và phun thuốc để diệt, nhưng những phương pháp đã được nêu ra ở trên là những gợi ý đúng cho hướng đi sau này khi nghiên cứu diệt mối theo phương pháp lây nhiễm.
Ở nước ta, sau ngày giải phóng miền Bắc năm 1954, nhưng thực chất mãi tới năm 1961, sau khi thành lập Viện nghiên cứu Lâm Nghiệp, nay là Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam, thì công tác nghiên cứu phòng trừ mối mới được tiến hành do đòi hỏi cấp bách của sản xuất và đời sống lúc đó.
Trong quá trình nghiên cứu về bảo quản lâm sản nói chung và phòng trị mối nói riêng, những người nghiên cứu phòng trừ mối đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước kia và đã tìm hướng đi đúng.
Từ những nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất, tác giả Nguyễn Thế Viễn trong bài viết về (Phòng trừ mối trong xây dựng, Tập san Lâm Nghiệp (TSLN) Số 2 và 5 năm 1964) đã đưa ra nhận xét về đặc tính sinh vật học của mối và nghi nhận rằng ở Bắc Việt Nam có hai nhóm mối gây hại gỗ xây dựng là: Mối gỗ khô và mối đất (mối hại cây trồng, hại đê đập, hại đường sắt thuộc lĩnh vực khác), có lẽ danh từ mối gỗ khô, mối đất có tên gọi từ đó. Trong tài liệu này tác giả đã đưa ra cách diệt mối nên làm bẫy để nhử mối: đào 1 hố dài 100cm ngang 50cm, sâu 40cm, cho mồi nhử mối vào đó và tưới nước cho ẩm, đậy nắp lại, khi mối vào nhiều dùng thuốc SiF6NA2, DDT để phun diệt mối. Tác giả Nguyễn Thế Viễn là một trong những người đầu tiên đưa ra phương pháp dùng hố nhử để bẫy mối và diệt chúng trong các công trình xây dựng ở nước ta.
Cũng trong thời gian này, khi nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của mối và biện pháp phòng trừ mối cho công trình xây dựng (Tập san xây dựng (TSXD) số 3,5 và 8 năm 1964) tác giả Nguyễn Xuân Khu đã đưa ra phương pháp phòng chống mối cho công trình xây dựng bằng cách xây dựng một hệ thống cách ly mối, để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Với phương pháp này người ta tạo ra xung quanh công trình xây dựng một hệ thống hàng rào bằng các hố nhử mối với kích thước của hố nhử là: 40 - 50cm (rộng); 50 - 60cm (dài); 40 - 50cm (sâu), hàng rào hố nhử này cách nền móng từ 5 - 10m, trong hố nhử đặt mồi nhử mối, và có nắp đạy ở trên. Khi kiểm tra có nhiều mối trong hố nhử thì dùng thuốc bột, thuốc nước hoặc hun hơi xử lý diệt mối để không cho mối từ bên ngoài xâm nhập vào công trình xây dựng. Đối với những phương pháp diệt và phòng mối đã kể trên tuy chưa hoàn chỉnh vì chưa chủ động nhử mối để diệt ở bất cứ nơi nào trong công trình xây dựng cũng như đã hạn chế sự phá hại của mối trong công trình xây dựng một cách tích cực.
Sau đó không lâu, công trình", năm 1971 của Nguyễn Chí Thanh đã được công bố. Thông qua những kết quả nghiên cứu có trong tập sách này cho thấy tác giả đã đi sâu nghiên cứu theo định hướng diệt mối theo phương pháp lây truyền và qua đó lý giải có tính thuyết phục về quá trình mối chết sau khi bị lây nhiễm bởi thuốc bột TM-67. Không dừng lại ở đó, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tính ổn định những nhân tố sinh thái (nhiệt độ, độ ẩm) trong một tổ mối trước khi phun thuốc và sự mất ổn định những nhân tố sinh thái trong tổ mối đó sau khi phun thuốc diệt mối dẫn đến cả tổ mối bị diệt mà không cần tìm tổ, không cần đào bới. Những kết quả nghiên cứu đó đã làm phong phú thêm về đặc tính sinh học và sinh thái học của giống mối nhà Coptotermes. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bổ sung về giống mối nhà, tác giả đã chỉnh lý để xây dựng Luận văn Phó tiến sĩ và bảo vệ thành công năm 1996.
Trong quá trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Chí Thanh đã cải tiến cách nhử mối, từ hố nhử mối được thay thế bằng hộp nhử mối (hộp bằng các tông, bên trong đựng mồi nhử mối) mà các tác giả trước đó khi nghiên cứu về mối đã chưa đề cập đến. Trước kia muốn nhử mối phải đào hố nhử mối, và như vậy chỉ có thể áp dụng một cách thuận lợi đối với nhà nền đất, còn đào hố nhử mối ở những nhà có nền nhà bằng xi măng hoặc đá hoa, nhà cao tầng, biệt thự, mái nhà lợp ngói thì khó thực hiện vì sẽ ảnh hưởng đến độ bền vững và vẻ đẹp vốn có của công trình. Còn đối với hộp nhử mối thì nó sẽ khắc phục được những nhược điểm trên, vì hộp nhử mối có thể đặt hoặc buộc chặt vào bất cứ nơi nào có mối qua lại để nhử và diệt chúng trong các công trình xây dựng.
Những cải tiến từ hố nhử bằng thùng nhử và sau cùng là hộp nhử mối có ý nghĩa thực tiễn nhiều, vì có được hộp nhử mối con người sẽ chủ động dụ được nhiều mối từ tổ mối để diệt chúng một cách triệt để (ở đây chỉ mối nhà Coptotermes).
Tuy vậy không phải trường hợp nào cũng áp dụng phương pháp diệt lây truyền cũng thành công cả. Trong cuốn sách "Mối ở miền Bắc Việt Nam 1976" của Nguyễn Đức Khảm, tác giả nghi nhận rằng "Sau khi công trình nghiên cứu của Lý Thủy Mỹ ra đời một thời gian thì thành tựu đó cũng được áp dụng vào miền Bắc nước ta, song kết quả thì không được là bao và thường mối không bị diệt trong toàn tổ" (tài liệu dẫn trang 182-1976).
Mười năm sau, qua những nghiên cứu và thực nghiệm về diệt mối, Nguyễn Đức Khảm và Vũ Văn Tuyển (1985) và không xa với những kết quả nghiên cứu đã được công bố ở trong nước về "Diệt mối theo phương pháp lây truyền" của Nguyễn Chí Thanh (1971). Tác giả Nguyễn Đức Khảm (1985) đã nghi nhận "Trong một số trương hợp nhất là khi không có cách truy tìm được tổ chính hoặc khi thăm dò tổ chính gặp khó khăn do một nguyên nhân nào đó, thì việc sử dụng biện pháp lây nhiễm một cách đúng quy trình và có thể là việc cần thiết, và thuốc bột acsenic là loại thuốc được dùng để diệt mối bằng phương pháp lây nhiễm tốt nhất hiện nay, nhưng các hợp chất này là những chất có chứa độc tố cho mối chết, nên khi sử dụng thuốc phải theo đúng quy trình và quy định bảo hộ lao động.
Ở Việt Nam ngoài những công trình nghiên cứu về diệt mối theo phương pháp lây truyền, còn có những kết quả về "phòng mọt, mục cho gỗ" "chọn các loại gỗ có sức đề kháng với tự nhiên đối với mối", "tìm tổ để diệt, cách ly cơ giới đối với mối, phòng mối có trọng điểm", "xử lý chân tường để phòng mối", "phương pháp phóng xạ", "phương pháp thăm dò điện để tìm tổ mối và diệt chúng", "Bơm nước và thuốc sát trùng vào tổ mối để diệt chúng".
Các bước thực hiện bao gồm 3 bước chính và được tiến hành như sau:
+ Bước 1: Lấy hộp nhử mối nhúng vào chậu nước cho ngấm đều hộp. Đặt hộp nhử mối vào các vị trí đang có mối hoạt động và những nơi có dấu hiệu của mối.
+ Bước 2: Khi mối đã tập trung vào hộp nhử nhiều, dỡ hộp nhử mối ra và tiến hành phun thuốc diệt mối lây truyền vào đó (Thuốc PMC - 90 do Việt Nam sản xuất với định mức 50g/hộp). Sau khi phun xong, đặt các hộp nhử mối trở lại vị trí ban đầu, thả cho mối lính, mối thợ đem thuốc độc chạy về, lây bệnh cho toàn bộ hệ thống tổ dưới lòng đất, làm mất cân bằng sinh thái trong môi trường tổ (nhiệt độ trong tổ mối có tính ổn định rất cao, nếu phá vỡ tính ổn định này thì tổ mối cũng sẽ bị tiêu diệt), nhằm diệt trừ toàn bộ hệ thống tổ ở dưới lòng đất, làm chết mối chúa (cá thể duy nhất có khả năng sinh sản).
+ Bước 3: Sau khi phun thuốc diệt mối được khoảng 5 - 7 ngày, tiến hành thu dọn hộp nhử mối và đem tiêu hủy. Kiểm tra lại kết quả diệt mối. Nếu kiểm tra các khu vực đã được xử lý mà không thấy còn mối thì coi như tổ mối đã được tiêu diệt hoàn toàn.
Trường hợp sau khi xử lý mà thấy mối còn đi lại tức là diệt mối không có kết quả do những nguyên nhân sau đây:
- Mồi nhử mối không thích hợp (không ngon) nên mối không đến ăn hoặc đến ăn quá ít, mục đích diệt mối ra để nhử không đạt.
- Định loại mối không chính xác.
- Khi phát hiện mối đất, lại nhầm tưởng là mối nhà "diệt mối theo phương pháp lây truyền" sẽ mang lại hiệu quả ít.
- Phun thuốc không đều, mối nhiễm thuốc ít, không đủ số lượng mối nhiễm thuốc để làm mất cân bằng sinh thái trong tổ mối.
- Đặt hộp nhử không đúng nơi mối đang đi lại.
Có rất nhiều loại bả diệt mối tại nhà, có tác dụng khác nhau đồi với các loài mối khác nhau. Sản phẩm bả ghi rõ tên hoạt chất diệt mối và được cấp phép sử dụng của cơ quan quản lý nhà nước.
Tùy theo từng loại bả, đặc điểm đối tượng xử lý và môi trường mối hoạt động, phương thức sử dụng bả khác nhau, nhưng nhìn chung có các bước căn bản sau đây:
Bước 1: Đặt bả
Ta tiến hành khảo sát vị trí mối, thành phần loài mối, đặc điểm tác hại, số lượng các điểm cần đặt bả, cách thức đặt bả và lượng bả cần thiết cho mỗi điểm đặt, Các điểm đặt bả phải được đảm bảo ổn định không bị di chuyển hoặc bị nhiễu động trong xuốt quá trình diệt mối.
Bước 2: Theo dõi tình hình bả sau khi đặt
Theo chu kỳ nhất định khoảng 10 ngày đến 15 ngày hoặc lâu hơn, kiểm tra lại các vị trí đặt bả để biết mối đã vào ăn bả chưa, tốc độ tiêu thụ bả, thời gian đàn mối bị tiêu diệt.
Bước 3: Kết thúc
Khi kiểm tra thấy các vị trí đặt bả đều hết mối thì công tác diệt đàn mối đó kết thúc, có thể thu dọn các hộp bả.
Dịch vụ diệt mối tận gốc tại huyện Mai Châu uy tín nhận diệt mối cho tất cả các xã bao gồm: thị trấn Mai Châu, xã Hang Kia, Mai Hạ, Mai Hịch, Nà Phòn, Pà Cò, Sơn Thủy, Tân Thành, Thành Sơn, Tòng Đậu, Vạn Mai, Xăm Khòe, Bao La, Chiềng Châu, Cun Pheo, Đồng Tân. Chúng tôi có các chuyên gia cố vấn đầu ngành và đội ngũ kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm, tận tâm, trung thực, hiểu biết sâu rộng về loài mối. Cam kết làm hài lòng khách hàng và tin tưởng sử dụng dịch vụ diệt mối của công ty chúng tôi.
+ Dịch vụ diệt tận gốc các loại mối phá hại nhà cửa, kho tàng, đê điều, khu di tích, cơ quan, công ty như: Diệt mối gỗ ẩm (mối nhà), diệt mối đất, diệt mối gỗ khô, diệt mối cánh, diệt mọt gỗ.
+ Diệt mối xông khuôn cửa, cầu thang, tủ bếp, ổ điện, trần gỗ, sàn gỗ, ốp chân tường gỗ, tủ tài liệu, két sắt, tủ quần áo, kho hàng...tại huyện Mai Châu.
+ Dịch vụ diệt mối, muỗi, kiến, gián, chuột...bằng các hóa chất thế hệ mới (chỉ phun một lần duy nhất nhưng có tác dụng diệt trừ và xua đuổi côn trùng trong thời gian từ 4 - 6 tháng, thuốc không mùi, không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường).
+ Tư vấn, thiết kế, và thi công phòng chống mối chuyên nghiệp cho các công trình mới bắt đầu xây dựng và các công trình đang sử dụng. Khử trùng các kho tàng, tài liệu, kho hàng hóa bị côn trùng gây hại và tấn công.
+ Bán buôn, bán lẻ vật tư thuốc phòng chống mối, mọt hại gỗ và côn trùng.
+ Phun thuốc diệt côn trùng để vệ sinh, bảo vệ con người, động vật và môi trường tại tỉnh Hòa Bình.
- Dịch vụ diệt mối tận gốc tại huyện Mai Châu uy tín, có đội ngũ kỹ sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm.
- Biện pháp sử lý mối tiên tiến.
- Giá cả cạnh tranh nhất.
- Tư vấn và khảo sát miễn phí tận công trình.
- Sử dụng hóa chất chính hãng, an toàn.
- Tuyệt đối bảo vệ môi trường.
- Bảo hành uy tín.
- Tận tâm, trung thực cam kết làm hài lòng khách hàng.
Ngoài cung cấp dịch vụ diệt mối tận gốc tại huyện Mai Châu uy tín, chúng tôi còn nhận cung cấp dịch vụ diệt mối cho tất cả các huyện tại tỉnh Hòa Bình bao gồm: diệt mối tại thành phố Hòa Bình, diệt mối tại huyện Yên Thủy, diệt mối tại huyện Lạc Thủy, diệt mối tại huyện Lạc Sơn, diệt mối tại huyện Đà Bắc, diệt mối tại huyện Cao Phong, diệt mối tại huyện Kim Bôi, diệt mối tại huyện Lương Sơn, diệt mối tại huyện Tân Lạc.
Tham khảo một số bài viết được nhiều khách hàng quan tâm:
Nằm mơ thấy con mối đánh số mấy?
15 sự thật mà bạn chưa biết về loài mối
Mối có lây từ nhà này sang nhà khác không?
Diệt mối trong bao nhiêu ngày?
Cần phải làm gì khi phát hiện mối?
Mẹo diệt mối cánh bay vào nhà không mất phí
Tại sao mối lại đi được trong tường bê tông?
=================================================
Mọi thông tin chi tiết về xin liên hệ:
Công Ty TNHH Kinh Doanh Dịch Vụ Diệt Mối Anh Tuấn
Địa chỉ: Khu 2, Tt Mai Châu, Thị trấn Mai Châu, Huyện Mai Châu, Tỉnh Hòa Bình
Điện thoại (Zalo): 0979 48 48 55
Email: tranvankhang201981@gmail.com
Website: www.dietmoianhtuan.com